nhau. Tề lại đến đánh, một trận phá được Nhã, quân của Cường sợ hãi, dắt
nhau ra hàng.
Đã bình huyện Hầu Quan, rồi các huyện Kiến An, Hán Hưng, Nam Bình
lại phản, Tề đem quân đến Kiến An, lập phủ Đô úy, năm đó là năm thứ tám
vậy. Quận phát năm nghìn quân của các huyện, đều sai các quan huyện
trưởng lĩnh lấy, đều chịu sự trông coi của Tề. Năm người bọn giặc là Hồng
Minh, Hồng Tiến, Uyển Ngự, Ngô Miễn, Hoa Đương đều lĩnh vạn hộ, đóng
đồn liền tiếp ở huyện Hán Hưng, đem năm, sáu nghìn hộ ở huyện Ngô đóng
đồn riêng ở huyện Đại Trạch, đem sáu nghìn hộ ở huyện Trâu Lâm đóng
đồn riêng ở huyện Cái Trúc, lại cùng đến huyện Dư Can, Đọc âm là ‘can’.
đem quân đánh huyện Hán Hưng, qua huyện Dư Can. Tề cho rằng quân
giặc ít, vào sâu mà không nối tiếp, sợ bị đánh chặn, do đó sai Tùng Dương
Trưởng là Đinh Phiên ở lại giữ huyện Dư Can. Phiên vốn ở bên thành của
Tề, lấy làm thẹn vì bị gọi vào đội ngũ, từ chối không chịu ở lại. Tề bèn
chém Phiên, do đó trong quân run sợ, không ai không vâng mệnh. Rồi chia
quân ở lại giữ, đến đánh bọn Minh, liên tiếp phá được bọn chúng. Chém
được Minh ở trong trận, Miễn, Đương, Tiến, Ngự đều ra hàng. Sang đánh
huyện Cái Trúc, đem quân hướng đến huyện Đại Trạch, tướng giặc ở đấy ra
hàng. Cả thảy đánh dẹp chém sáu nghìn đầu, tướng giặc bị bắt cả, lại lập ra
huyện ấp, thu nạp được vạn quân, bái làm Bình đông Hiệu úy. Năm thứ
mười, sang đánh huyện Thượng Nghiêu, chia huyện ấy lập ra huyện Kiến
Bình.
Năm thứ mười ba, chuyển làm Uy vũ Trung lang tướng, đánh các huyện
Y, Thiệp của quận Đan Dương. Bấy giờ, người bốn ấp Vũ Cường, Diệp
Hương, Đông Dương, Phong Phố hàng trước, Tề dâng biểu xin lấy ấp Diệp
Hương lập thành huyện Thủy Tân. Nhưng tướng giặc ở huyện Thiệp là
Kim Kì đem vạn hộ đóng đồn ở núi Vạn Lặc, Mao Cam đem vạn hộ đóng
đồn ở núi Ô Liêu, tướng giặc ở huyện Y là bọn Trần Bộc, Tổ Sơn đem hai
vạn hộ đóng đồn ở núi Lâm Lịch. Núi Lâm Lịch bốn bề vách đá dựng
đứng, cao đến mấy chục trượng, đường hẹp ngăn trở, không vừa đao khiên,
giặc lên chỗ cao ném đá xuống, do đó không đánh lên được. Đóng quân