nhiều ngày, quan tướng lo lắng. Tề tự đi xung quanh, xem xét địa hình,
ngầm kén chọn quân khỏe mạnh, tạo ra lưỡi câu sắt, ém nấp ở chỗ hiểm mà
quân giặc không phòng bị, lấy lưỡi câu móc mà men theo đường, buổi đêm
ngầm sai trèo lên, lại bày treo nhiều dây xuống dưới, do đó đem mấy trăm
người trèo lên được, bốn bề bủa vây, lại cùng đánh trống thổi tù và, Tề lĩnh
quân đợi giặc. Giặc buổi đêm nghe tiếng trống bốn bề, bảo nhau là đại quân
đã lên được hết, sợ hãi rối loạn, không biết làm gì, những kẻ giữ chỗ hiểm
đều chạy về dựa vào quân mình. Đại quân nhân đó trèo lên trên, đại phá
bọn Bộc, bọn còn lại đều hàng phục, cả thảy chém bảy nghìn đầu.
Bão Phác Tử chép: Ngày xưa vua Ngô sai Hạ Tướng quân đánh giặc
trên núi, bọn giặc có vật chỗng đỡ tốt, hễ lúc giao tranh, đao kiếm của
quan quân không đâm chém được, cung nỏ tên đạn đều bị bật trở lại, do đó
thường không được lợi. Hạ Tướng quân suy nghĩ hồi lâu, rồi nói: “Ta nghe
nói mũi đao sắt cứng vẫn ngăn được, rắn có nọc độc vẫn chống được. Nếu
không phải là vật có mũi nhọn, không phải là rắn có nọc độc thì không
ngăn được. Địch ngăn được vũ khí của quân ta, chắc không thể ngăn được
vũ khí không có mũi nhọn vậy”. Bèn làm nhiều cây gậy màu trắng cứng
chắc, chọn năm nghìn quân khỏe mạnh trèo lên trước, đều nắm chặt gậy.
Giặc trên núi cậy vào vật ngăn chống tốt kia mà không lo phòng bị. Do đó
quan quân cầm gậy trắng mà đánh đập, vật ngăn chống kia quả nhiên
không còn đỡ được, giặc bị đánh giết đến vạn người.
Tề lại dâng biểu xin chia huyện Thiệp lập ra các huyện Tân Định, Lê
Dương, Hưu Dương, gồm cả huyện Y, huyện Thiệp, cả thảy là sáu huyện,
Quyền bèn chia đặt thành quận Tân Đô, lấy Tề làm Thái thú, lập phủ ở
huyện Thủy Tân, bái thêm chức Thiên tướng quân.
Năm thứ mười sáu, dân ở huyện Dư Hàng quận Ngô là Lang Trĩ hợp phe
đảng nổi dậy, có đến mấy nghìn người, Tề lại ra đánh, liền chém được Trĩ,
dâng biểu xin chia huyện Dư Hàng lập ra huyện Lâm Thủy.
Ngô lục chép: Nhà Tấn đổi tên thành huyện Lâm An.