Năm thứ hai mươi mốt, dân ở quận Bà Dương là Vưu Đột nhận ấn thao
của Tào Công, dụ dân làm giặc, dân các huyện Lăng Dương, huyện Thủy
An, huyện Kinh đều ứng theo với Đột. Tề cùng Lục Tốn đánh phá Đột,
chém mấy nghìn đầu, bọn còn lại sợ phục, ba huyện của quận Đan Dương
đều bình, thu được tám nghìn quân tinh nhuệ. Bái làm An đông Tướng
quân, phong Sơn Âm Hầu, ra giữ ở miền trên sông Giang, trông coi miền
Phù Châu lên đến huyện Hoản.
Đầu năm Hoàng Sơ, nhà Ngụy sai Tào Hưu đến đánh, Tề vì đường xa
mà đến sau, nhân đó đóng quân ở Tân Thị mà ngăn chống. Gặp lúc các
quân ở Động Khẩu gặp gió giật mà rơi xuống nước chìm đắm, chết đuối rất
nhiều, tướng sĩ biến sắc, cậy vào việc Tề chưa qua sông, quân khỏe vẫn
còn, do đó các tướng được nhờ vào thế của Tề.
Tính Tề hoa lệ, ưa làm việc quân, các đồ binh khí rất là đẹp đẽ, thuyền
mà mình ngồi có khắc vẽ hoa văn màu đỏ, che lọng màu xanh, trùm màn
gấm, các đồ can qua mâu kích đều vẽ hình đẹp, cung nỏ tên đạn đều làm
bằng gỗ tốt, trùm bít các đồ lên trên đầu thuyền, nhìn từ xa như quả núi.
Bọn Hưu e ngại, bèn dẫn quân về. Chuyển làm Hậu tướng quân, ban Giả
tiết, lĩnh chức Từ Châu Mục.
Lúc trước, Tấn Tông làm Hí Khẩu Đốc, đem quân phản theo Ngụy, về
làm Kì Xuân Thái thú, mưu đánh úp huyện An Lạc, bắt lấy quân dân. Do
đó Quyền thẹn giận, nhân lúc mới bãi binh, vào giữa mùa hạ tháng sáu mà
ra chỗ không ngờ, hạ chiếu sai Tề đem bọn Mi Phương, Tiên Vu Đan đánh
úp quận Kì Xuân, bèn bắt sống được Tông. Sau đó năm thứ tư thì chết, con
là Đạt và em là Cảnh đều có tiếng tăm, là tướng giỏi vậy.
Cối Kê điển lục chép: Cảnh làm Diệt tặc Hiệu úy, trị quân nghiêm ngặt
mà có ân, binh khí sáng loáng, đứng đầu vào thời ấy, nhưng chết sớm. Đạt
cũng có khí mạnh, nhưng nhiều lần làm trái, cho nên dẫu đánh dẹp có công
mà không được ban chức tước, nhưng khinh tiền trọng nghĩa, tráng liệt hơn
người. Con là Chất, làm đến Hổ nha Tướng quân. Con Cảnh là Thiệu, cũng
có truyện chép.