Tướng quân Hạ Hầu Uyên, Hậu tướng quân Chu Linh, Văn Sính, Chấp kim
ngô Tang Bá, Phá lỗ Tướng quân Lí Điển, Lập nghĩa Tướng quân Bàng
Đức, Vũ mãnh Hiệu úy Điển Vi ở miếu đình Thái Tổ. Mùa đông tháng
mười hai, nữ vương của nước Oa là Tỉ Di Hô sai sứ dâng tặng.
Năm thứ năm, mùa xuân tháng hai, hạ chiếu sai Đại tướng quân Tào
Sảng đem quân đánh Thục. Mùa hạ đầu tháng tư, Mặt trời có chỗ khuyết.
Tháng năm ngày quý tị, giảng kinh Thượng thư thuộc xong, sai quan Thái
thường lấy đồ thái lao tế Khổng Tử ở miếu Tích Ung, tế cùng Nhan Uyên;
ban sách Đại truyện cho Đại tướng quân và người hầu giảng theo cấp bậc.
Ngày bính ngọ, Đại tướng quân Tào Sảng dẫn quân về. Mùa thu tháng tám,
Tần Vương là Tuân hoăng. Tháng chín, người Tiên Ti xin nội thuộc, đặt
Liêu Đông thuộc quốc, lập huyện Xương Lê để người Tiên Ti ở đấy. Mùa
đông tháng mười một ngày quý mão, hạ chiếu cúng tế Thượng thư Tuân Du
ngày trước ở miếu đình Thái Tổ.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Lúc trước nhà Ngụy cúng tế mà không màng
đến Tuân Úc, có lẽ là những năm cuối của người này có người bàn khác,
lại vì chức vị không phải là đại thần của nhà Ngụy vậy. Đến như đề cao
Trình Dục mà hạ thấp Quách Gia, đặt Chung Do trước mà sắp Tuân Du
sau thì chưa rõ cái ý ấy. Từ Tha mưu phản thì Hứa Chử cảnh giác, rất là
trung thành sánh với Nhật Đê thời xưa, vả lại ở trận Đồng Quan, nếu
không có Chử giúp thì không thắng được, công lao của Chử hơn cả Điển
Vi, nay tế Vi mà không màng đến Chử, đấy lại có chỗ chưa đạt vậy.
Ngày kỉ dậu, đặt lại nước Tần thành quận Kinh Triệu. Tháng mười hai,
Tư không Thôi Lâm hoăng.
Năm thứ sáu, mùa xuân tháng hai ngày đinh mão, quận Nam An động
đất. Ngày bính tí, lấy Phiếu kị Tướng quân Triệu Nghiễm làm Tư không;
mùa hạ tháng sáu, Nghiễm hoăng. Tháng sáu ngày đinh mão, lấy Thái
thường Cao Nhu làm Tư không. Ngày quý tị, lấy Tả quang lộc Đại phu Lưu
Phóng làm Phiếu kị Tướng quân, Hữu quang lộc Đại phu Tôn Tư làm Vệ
tướng quân. Mùa đông tháng mười một, hợp tế ở miếu Thái Tổ, bắt đầu tế
mười một tôi thần giúp vua mà ngày trước bàn luận. Tháng mười hai ngày