Quân: là tên của Mã Quân, nghĩa gốc là cái bàn xoay để làm đồ
gốm.
Hành: là tên chữ của Mã Quân, nghĩa gốc là cái cân để cân đo nặng
nhẹ của vật.
Nhan Uyên: là người nước Lỗ thời Xuân thu được Khổng Tử khen là
có đức hạnh.
Tể Ngã, Tử Cống: Tể Ngã, Tử Cống đều là người nước Lỗ thời Xuân
thu được Khổng Tử khen là có tài biện bác.
Nhiễm Hữu, Quý Lộ: Nhiễm Hữu, Quý Lộ đều là người nước Lỗ thời
Xuân thu được Khổng Tử khen là có tài chính trị
Tử Du, Tử Hạ: Tử Du là người nước Ngô, Tử Hạ là người nước Tấn
thời Xuân thu được Khổng Tử khen là có tài văn học.
Kinh Hòa ôm ngọc mà khóc: chỉ Biện Hòa người nước Sở (còn gọi là
nước Kinh) nhặt được một viên ngọc dưới núi Kinh, đem dâng cho Sở Vũ
Vương, hai lần dâng đều bị cho là ngọc giả, bị phạt tội chặt cả hai chân.
Lúc Sở Thành Vương lên ngôi, Biện Hòa ôm ngọc đến dưới núi Kinh mà
khóc. Thành Vương nghe tin, sai người đến xem thì đúng là ngọc đẹp thật.
Công Du Ban, Mặc Địch, Vương Nhĩ: Công Du Ban là người nước
Lỗ thời Xuân thu, còn gọi là Lỗ Ban, là một thợ mộc giỏi nổi tiếng chư hầu.
Mặc Địch là người nước Lỗ thời Xuân thu, tức Mặc Tử, được xem là ông tổ
của phái Mặc gia. Vương Nhĩ là một người thợ giỏi thời xưa, không rõ thời
nào, có lẽ trước thời Hán.
Trương Bình Tử: tức Trương Hành tự Bình Tử, người thời Đông
Hán, là nhà thiên văn học giỏi.
Lang: tức quan Thị lang, thường coi việc sách vở trong cung, phủ.
Châu mục: tức quan Thứ sử đứng đầu một châu. Cuối thời Hán loạn
lạc, Châu mục nắm hết việc binh của một châu.
Công phụ: Chỉ Tam công và Tứ phụ, giống Thừa tướng.
Thường bá: chức quan trông coi một vùng.
Công Đạt: tức Tuân Du tự Công Đạt.