kín mặt biển, nhìn từ xa trông như một mảng đinh sắt màu đen, ghim chặt
mặt biển màu xanh không cho phép nó dập dềnh trong gió.
Helena nhìn hết thảy những cảnh tượng ấy, say sưa nhắm mắt: Đây là
chiến trường của mình, đây là cuộc chiến của mình. Truyền thuyết về tổ
tiên mà cha vô số lần kể đi kể lại hồi cô ta còn nhỏ lại hiện lên trong tâm
trí: Ở châu Âu bên kia eo biển Bosporus, tại một nông trang vùng Provence,
một hôm nọ trên trời bỗng sà xuống một đám mây lành, trong đám mây ấy
hiện ra một đội quân toàn trẻ con. Trên áo giáp uy vũ của bọn họ, chữ thập
phát ra ánh sáng đỏ rực rỡ, một vị thiên sứ dẫn đầu đội ngũ ấy. Nghe lời
kêu gọi, tổ phụ cô ta đã gia nhập đội quân. Họ băng thuyền qua Địa Trung
Hải đến Đất Thánh, chiến đấu vì Thượng Đế, trong Thánh chiến, tổ phụ
cô ta đã trở thành một Kỵ sĩ Đền Thánh, sau đó gặp được một kỵ sĩ Thánh
nữ xinh đẹp ở thành Constantinopolis, hai người đắm đuối yêu nhau, từ đó
sinh ra một gia tộc quang vinh...
Sau khi lớn lên, Helena dần dần biết được sự thực: các nét chính câu
chuyện này về cơ bản là vậy, ông tổ cô ta quả thực đã gia nhập vào đạo
quân Thập tự chinh trẻ em, lúc đó Cái chết Đen vừa tràn qua vùng Tây Âu,
ruộng đồng bỏ hoang, gia nhập vào quân Thập tự chinh chẳng qua chỉ vì
muốn khỏi chết đói. Có điều, ông tổ cô ta chưa từng tham gia cuộc Thánh
chiến nào, vì vừa xuống khỏi tàu, ông cùng hơn mười nghìn đứa trẻ khác
đều bị đóng cùm vào chân bán đi làm nô lệ, nhiều năm sau mới may mắn
trốn thoát, lưu lạc đến thành Constantinopolis. Ở đó, ông quả cũng gặp
được một nữ binh lớn hơn mình nhiều tuổi trong đoàn kỵ sĩ Thánh nữ, chỉ
có điều, số phận bà cũng chẳng hơn ông được bao nhiêu. Lần đó, người
Byzantium đang mong ngóng chờ đợi binh lính tinh nhuệ từ Tây Âu đến
giúp họ đối phó với lũ tín đồ dị giáo, không ngờ lại là một đám phụ nữ
chân yếu tay mềm trông như lũ ăn mày, bọn họ tức tối cắt luôn mọi nguồn