minh thật. Mình sẽ tự viết nó ra - tác giả kể chuyện, và tất cả những chuyện
linh tinh đó - và bản thân mình sẽ là hung thủ.’ Trong câu chuyện thôi, xin
lưu ý như thế…”
“Tài tình đấy, thanh tra à.”
“Vâng, nếu ngài lần theo cái thứ đó,” Thumm càu nhàu. “Bây giờ hãy
nhìn đi. Sau khi ông ta tự tử - tôi cá đó là điều mà ông ta chẳng tính đến khi
bắt đầu đặt bút viết câu chuyện bí ẩn kia! - thì có kẻ tiếp cận và tìm thây cốt
truyện của ông ta, rồi dùng nó như bản chỉ dẫn cho vụ giết người thực
sự…”
“Chuẩn xác.”
“Chuẩn xác cái đầu ngài ấy!” Thumm kêu lên. “Chết tiệt thật, dù trông
như thể điều đó có nghĩa gì đó, nhưng rốt cục chẳng có nghĩa gì sất! Cùng
lắm chỉ có thể biết được rằng có kẻ đã dùng ý tưởng của York Hatter như
một bản chỉ dẫn. Có thể là bất cứ ai!”
“Tôi tin rằng ngài đã hiểu những khả năng có thể xảy ra,” Lane đáp.
“Ý ngài là sao?”
“Đừng bận tâm.”
“Vâng, có lẽ ngài thông minh hơn tôi,” viên thanh tra lẩm bẩm. “Tôi tin
đây là lý do khiến vụ án trở nên vòng vo. Theo sau một cốt truyện trinh
thám!” Ngài lấy ra một cái khăn tay lớn và xì mạnh mũi ba lần. “Đó là một
câu chuyện trinh thám tệ hại, tôi xin nói như vậy. Nhưng dù sao nó vẫn có
ích. Có rất nhiều tình tiết trong vụ án thực tế mà chưa thể giải thích cặn kẽ
được. Nên theo tôi thấy thì những thứ không thể giải thích này chúng ta có
thể đổ hết cho cái cốt truyện linh tinh của ông ta.”
Lane chẳng nói gì.
Thumm thêm phần gắt gỏng. “Còn một điều nữa.” Ngài chăm chú nhìn
một cái móng tay. “Ngài biết đấy, tuần trước khi ngài nói với tôi về cái bản
thảo này, tôi đã tôn trọng yêu cầu của ngài là không đặt câu hỏi. Tôi chẳng
ngại khi nói rằng Bruno và tôi đang nghi vấn, ngài Lane ạ, xin được nói
thẳng - là ngài đang giữ bí mật nào đó, tôi không biết đó là bí mật quái quỷ
gì, cả tôi lẫn Bruno đều chịu không biết, và chúng tôi biết vậy. Nếu không
chúng tôi đã chẳng để người ngoài như ngài tự do điều tra như thế.”