thành, bà thở dài để mặc chúng tôi. Jeremy u ám nhìn trừng trừng vào đám
lửa đang nhảy nhót, tôi u ám nhìn trừng trừng Jeremy.
Chúng tôi cứ ngồi như thế độ nửa tiếng thì nghe thấy tiếng đập ầm ầm
vào cửa trước, một lúc sau Cha Muir lảo đảo vào phòng khách cùng ngài
Lane. Gương mặt vị linh mục già méo mó vì đau khổ, xám xịt, lấp lánh mồ
hôi, như thường lệ, đôi tay bé nhỏ, mập mạp của ông ta nắm chặt lấy cuốn
kinh nhật tụng mới tinh, sáng bóng. Đôi mắt ngài Lane thì đờ đẫn, ông cố
giữ mình đứng thật thẳng, như thể bị choáng váng trước hình ảnh thoáng
qua của Địa ngục.
Cha Muir lặng lẽ gật đầu với chúng tôi, ngồi thu mình trong chiếc ghế
bành mà không nói gì. Quý ông già bước ngang phòng đến cầm lấy hai tay
tôi. “Chào Clay. Patience này,” ông nói bằng giọng thấp, căng thẳng, “cháu
đang làm gì ở đây thế?”
“Ôi, ngài Lane,” tôi kêu lên, “Cháu có một tin khủng khiếp cho ngài
đây!”
Đôi môi ông bặm lại thành một nụ cười xám xịt, bé nhỏ. “Đáng sợ à,
cháu yêu? Không thể tồi tệ hơn nữa… Ta vừa chứng kiến một người chết.
Chết đấy! Thật không thể tin nổi nó đơn giản đến thế, thật đơn giản, tàn bạo
và cực kỳ khủng khiếp.” Ông nhún vai, hít một hơi sâu, rồi ngồi xuống một
chiếc ghế bành bên cạnh tôi. “Tin tức của cháu à, Patience. Là gì vậy?”
Tôi nắm chặt tay ông, như thể là chiếc phao cứu sinh. “Bác sỹ Fawcett
vừa nhận được thêm một mảnh rương gỗ bé!”