dân Mỹ nhận đ ược ít hơn. Chính phủ Mỹ là nước phát triển duy nhất không cung
cấp dịch vụ y tế công
. Người viết: tính đến thời điểm cuốn sách xuất bản.)
Thâm hụt và thặng dư ngân sách: Thâm hụt ngân sách xảy ra khi tổng chi tiêu
của chính phủ nhiều hơn tổng thu, còn thặng dư ngân sách thì ngược lại. Cân đối
ngân sách nên được thực hiện trong thời gian dài, theo đó, chính phủ nên duy trì
thặng dư ở mức vừa phải trong thời gian tốt của nền kinh tế, và thâm hụt ở mức
vừa phải trong thời gian khó khăn.
Cán cân thương mại: Khi thu nhập của một quốc gia đến từ các nước khác (chủ
yếu là hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu) cao hơn thu nhập của các nước khác đến
từ quốc gia đó, nghĩa là quốc gia đó đang có thặng dư thương mại. Trường hợp
ngược lại là thâm hụt thương mại. Nếu quốc gia mua nhiều hàng hóa để đầu tư
và phát triển trong tương lai thì sự thâm hụt này là tốt. Còn nếu quốc gia đó mua
nhiều hàng hóa để tiêu dùng thì sự thâm hụt này là xấu. Theo quan sát, các quốc
gia phá sản đều có thâm hụt thương mại lớn.
Tiết kiệm quốc gia: Các cá nhân, sau khi chi tiêu cho nhu cầu và kế hoạch cá nhân,
cần phải tiết kiệm vì đây là yêu cầu thiết yếu để tích lũy tư bản cho đầu tư và
giúp cho năng suất lao động của cả xã hội tăng lên. Quốc gia có tiết kiệm thấp
phải vay mượn nước ngoài và phải trả phần thu nhập của đầu tư cho khoản vay
gốc lẫn lãi.
Nhân khẩu học: Quỹ an sinh xã hội dành cho người lớn tuổi hoạt động như một
mô hình hình tháp, tức là những người trẻ còn làm việc – ở đáy tháp – đóng góp
tiền an sinh xã hội cho những người già đã về hưu – ở đỉnh tháp. Hệ thống sẽ vận
hành tốt khi số người trẻ ở đáy tháp nhiều hơn số người già ở đỉnh tháp. Khi xã
hội già đi, số người trẻ ít hơn, họ phải làm việc nhiều hơn và đóng góp nhiều hơn
để duy trì quỹ an sinh xã hội.
Cục Dự trữ Liên bang, chính sách tiền tệ và lạm
phát
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ
(Fed) bao gồm 12 ngân hàng và một Hội đồng Thống đốc
gồm bảy thành viên. Người đứng đầu Hội đồng này cũng là Chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang.
Đơn vị này có nhiệm vụ giám sát, điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại, gắn kết
hoạt động của hệ thống tài chính và quan trọng nhất là điều hành chính sách tiền tệ.
Cục Dự trữ Liên bang cần phải quyết định một lượng tín dụng “vừa đúng” để giữ cho nền
kinh tế tăng trưởng ổn định.
Nếu Fed cung cấp cho nền kinh tế lượng tiền lớn – thông qua các ngân hàng thương mại lớn –
lãi suất sẽ giảm, các công ty sẽ đầu tư sản xuất nhiều hàng, kinh tế phát triển. Nhưng khi lãi
suất quá thấp, người tiêu dùng sẽ đầu tư, tiêu dùng nhiều, cung cao hơn cầu, dẫn đến việc tăng
giá của các sản phẩm và xảy ra lạm phát.
Lạm phát sẽ dẫn đến những hệ lụy như: sức mua đồng tiền giảm, ngân hàng không dám cho
người dân vay tiền trong thời gian dài, ảnh hưởng lớn đến những cá nhân đã nghỉ hưu hay
những người đang sống bằng các khoản thu nhập cố định khác, nền kinh tế bị chệch hướng… Vì
những ảnh hưởng to lớn này, lạm phát – đặc biệt là lạm phát phi mã – là điều mà tất cả các
chính phủ đều e ngại.
Giảm phát – một tình trạng đối nghịch với lạm phát – cũng gây ra những ảnh hưởng xấu
không kém. Giảm phát sẽ làm cho người tiêu dùng ngừng chi tiêu và nền kinh tế ngừng tăng
trưởng. Các công ty phản ứng lại bằng cách tiếp tục giảm giá. Cứ như thế, giảm phát tạo thành
một vòng xoắn ốc kéo nền kinh tế đi xuống.