Kỵ binh Tây Lương quả là danh bất hư truyển, ai nấy tinh thần hăng hái khí
thế uy vũ, tuy số lượng không đông nhưng khối giáp sáng ngời, tỏ vẻ tinh
nhuệ thiện chiến, người đứng thẳng hàng đã đành, nhưng ngựa với
ngựa cũng hàng lối thẳng tắp đâu đấy.
Tào Tháo vốn coi thường Trương Tú, nhưng dù gì lúc này người ta cũng đã
quy hàng, Tháo lại không nén nổi cảm thán: - Dục Thủy hiểm yếu, Uyển
Thành kiên cố, binh mã tinh nhuệ, tiểu Trương Tú cũng là kẻ địch mạnh
chẳng phải chơi!
Đúng lúc ấy, chợt nghe chiêng trống vang lừng khải ca nổi lên, từ phía
chiếc cầu treo một người cưỡi ngựa phi đến trước mặt. Người ấy khoảng
hơn hai mươi tuổi, mình cao bảy thước, mặt trắng để râu, mình khoác liên
hoàn giáp màu trắng bạc, đầu đội mũ đâu mâu, không đeo ngù đỏ mà đeo
dải khăn trắng trên mũ, rủ xuống hai bên gió dưa phơ phất, trông lại vô
cùng tiêu sái. Tào Tháo bất giác quay sang nói với Quách Gia bên cạnh: -
Đây hẳn là tay bạch mã ngân thương Trương Tú, hắn vẫn còn để tang
Trương Tế đó!
Trương Tú một người một ngựa qua cầu, đạp yên xuống ngựa, rồi cởi bỏ
bội kiếm bên hông ném xuống đất, nhìn lá cờ lớn, rảo bước về trướng
trung quân Tào Tháo. Một loạt hành động diễn ra vô cùng dứt khoát! Tào
Tháo thấy Tú cúi đầu đi bộ không mang theo khí giới nên cũng không ngăn
trở; Trương Tú đến thẳng trước đội quân kỵ mới dừng bước, bỏ đâu mâu
xuống vòng tay thi lễ: - Tại hạ Kiến trung tướng quân Trương Tú nghênh
tiếp đại quân triều đinh chậm trễ, mong Tào công thứ tội!
Giả Hủ đã dặn dò kỹ càng đâu đấy, khi gặp không được nói “đầu hàng” mà
nói “nghênh tiếp” , để bày tỏ vốn không có ý kháng cự. Tự xưng là giữ
chức Kiến Trung tướng quân, như thế sẽ chỉ có thăng mà không có giáng.
Nói rõ là “đại quân triều đình” , chứ không phải “quân Tào” , để khẳng
định là bản thân thừa nhận sự tồn tại của triều đình Hứa Đô. Tham bái Tào
Tháo phải xưng hô “Tào công” không được gọi “tướng quân” , để thể
hiện sự tôn trọng với thân phận và chức vụ Tư không của Tào Tháo hiện