huy các thượng thư, lệnh sử múa bút đua văn.
— Năm xưa, khi Lệnh quân còn chưa thành danh, Hà Ngung đã
nói ông có tài phò vua giúp nước, có vị trí như ngày hôm nay cũng là lẽ
đương nhiên thôi.
— Tài phò vua giúp nước... - Tuân Úc cười nhăn nhó. Tài phò vua
giúp nước đúng thực không sai, nhưng rốt cuộc là phò giúp cho ai?
Tào Tháo chợt nhớ ra một việc:
— Trước khi ta xuống phía nam từng dâng sớ xin phong tước hầu
cho mười mấy người. Những người khác đều đã có biểu tạ ơn, mà sao
Lệnh quân lại không chịu nhận? - Những người Tào Tháo biểu tấu lần
này đều là những công thần giúp việc cử binh khi xưa, có người đã làm
quan trong triều, có người là tướng quân, có người là duyện thuộc. Tâu
cho Hạ Hầu Đôn làm Cao An Đình hầu, Tuân Du làm Lục Thụ Đình
hầu, Chung Do làm Đông Vũ Đình hầu... Tuân Úc được xếp đầu bảng,
xin phong làm Vạn Tuế Đình hầu.
Tuân Úc lặng yên nhìn lên cung điện, rút một cuốn thẻ tre trong
tay áo ra:
— Ngài nói cái này ư?
— Lệnh quân không trình nó lên thiên tử ư? - Tào Tháo nhận lại
xem, quả nhiên là nét chữ của chính mình viết:
Thần nghe, lo toan là công đầu, mưu tính nên thưởng trước. Công
tích ở ngoài chẳng qua được kẻ ở trong miếu đường, đánh trận tuy
nhiều không vượt nổi công lao trong nước. Cho nên ban thưởng ở Khúc
Phụ, không thua kém Doanh Khâu; quan tước của Tiêu Hà còn trước
cả Bình Dương. Quý trọng mưu kế sách lược, vốn được ưa chuộng xưa
nay. Thị trung thủ Thượng thư lệnh Tuân Úc, tích lũy đức hạnh, từ nhỏ
đến lớn chưa hề thay đổi, gặp thuở loạn ly, một dạ trung vua, hằng
mong thịnh trị. Từ khi thần cử nghĩa binh, chinh phạt khắp nơi, có
Tuân Úc cùng đồng tâm hiệp lực, ở hai bên tả hữu lo sách lược cho nhà
vua. Những mưu kế bàn bạc của Tuân Úc, không điều gì không có hiệu
quả. Công nghiệp của Tuân Úc, thần cũng nhờ đó mà được thành tựu,