Thất xuất: còn gọi là “thất khứ”, xuất xứ từ Lễ Ký, là bảy điều
kiện cho phép đàn ông được bỏ vợ thời xưa. Bảy điều đó là: Không
hiếu thuận với cha mẹ chồng, không có con trai, dâm loạn, ghen tuông,
mắc phải bệnh ác, lắm lời nhiều chuyện, trộm cắp tài vật nhà chồng.
Tên tự của Tào chân.
Mệnh lệnh do thiên tử ban ra thì gọi là sắc, do vương hầu ban
ra chỉ gọi là giáo.
Cao hoang: người xưa gọi phần màng mỡ đầu tim là “cao”,
bộ phận giữa cơ hoành và tim gọi là “hoang”.
Lâu xa: một loại máy gieo hạt thời xưa.
Đời Hán coi nghề y là việc của người hạ đẳng, quy vào với vu
sư thuật sĩ, cùng hàng với thợ thuyền, buôn bán, không thể nhập sĩ làm
quan. Trước Hoa Đà, Trương Cơ, thời Đông Hán cũng có danh y Phí
Trường Phòng làm thuốc cứu đời, cũng là người vừa trị bệnh vừa bắt
quỷ, chưa hình thành một hệ thống nghề nghiệp độc lập.
Sơn Việt: đời Hán, các dân tộc thiểu số ở phương nam như
người Choang, người Động, người Mèo... được gọi chung là Sơn Việt.
Vì họ có rất nhiều chi hệ nên còn gọi là Bách Việt. Đời Hán, các thế lực
Sơn Việt còn rất lớn mạnh, gần như bao trùm cả các khu vực Giang Tô,
Giang Tây, Triết Giang... Sau đó mới dần dần bị người Hán đồng hóa.
Lễ thái lao: một trong những đẳng cấp về đồ tế phẩm trong
việc tế lễ thời xưa. Thương thường tế tự thiên tử dùng lễ thái lao, tức là
dùng ba con vật (tam sinh) là lợn, trâu, dê để cúng tế; tế tự chư hầu thì
dùng lễ trung lao chỉ có trâu, dê mà không có lợn.
Ký thất: chức quan phụ trách việc khởi thảo văn thư.
Phục duy thượng hưởng: câu cuối thường dùng trong văn tế
xưa. Đại ý là: Cung kính quỳ phục xuống đất, xin người được tế bái thụ
hưởng đồ cúng lễ.
Viên Thiệu có ba con trai đã thành niên, con trưởng Viên
Đàm tự Hiển Tư, con thứ hai Viên Hy tự Hiển Ung, con thứ ba Viên