hỏn. Ngó qua tôi đã hết vía, liền phải dịch ra chiếu ngoài. Một ông thay mặt
hiếu chủ mời tôi trở lại chỗ cũ uống rượu.
Nhưng tôi khất đến trưa, lấy cớ không quen ăn cơm sáng quá. Phải
hai, ba lần trần tình một cách thiết tha người ta mới để cho tôi ngồi yên.
Mâm cỗ liền bị đưa vào trong nhà với mấy ông khách mới đến.
Bây giờ không thấy mùi thịt trâu nữa. Khứu giác của tôi đã bị cái kỳ
hương ấy ám ảnh làm cho mất hẳn bản năng, nó không đủ sức để làm phận
sự của nó. Thảo nào những nhà hàng mắm không hề ngửi thấy mùi mắm
bao giờ.
Lúc này mới kịp ngắm cảnh tượng nhà đám.
Đám to thật!
Khắp các cột nhà, cột rạp, cột nào cũng có câu đối giấy xanh. Ngoài
rạp cũng như trong nhà, trướng xa tanh, câu đối cát bá che kín các bức vách
và các bức thuận. Quan tài cụ Bá lù lù nằm ở gian nhà chính giữa. Hợp với
hương án trong kê trước giường thờ và hương án ngoài kê giáp bực cửa, nó
đã thành ra hình chữ "công" để chứa một lũ con cháu trắng lốp giống như
một đàn bồ câu trắng.
- Trâu làng xong rồi! Các anh vào nhà sắp sửa chỗ tế! Mau lên! Kẻo
chạ sắp tới bây giờ.
Tiếng quát tháo thình lình nổi lên giục tôi phải quay đầu lại.
Bao nhiêu bàn ghế ở gian giữa rạp đều phải khiêng đi nơi khác để
nhường chỗ cho một cái nong và một đôi đẳng. Qua mấy phút nhốn nháo,
lộn xộn, cái nong được an trí ngay ở phía trước thềm, đôi đẳng thì kê đối
nhau ở ngoài cửa rạp. Đài rượu, be rượu, cây đèn, cây nến bày lên ngổn
ngang.