Ngoài cổng, bỗng có tiếng reo ầm ầm. Một bọn chừng hơn mười
người xúm nhau khiêng con trâu thui vào rạp, rồi đặt nó nằm phủ phục vào
trong chiếc nong dưới thềm. Con trâu đẹp lạ, thật giống như con voi ở các
cửa miếu. Làng vào.
Tất cả độ hơn chục ông, ai cũng như nấy, guốc gỗ, áo nâu, quần cháo
lòng và tấm áo thụng trắng vắt ở trên vai lủng lẳng. Sau một cuộc chào mời
rất cung kính của tang gia, cả bọn ngồi lên dãy phản bên kia.
Các áo thụng trắng quăng đầy mặt chiếu. Tan tuần trầu nước, và vài ba
lượt thuốc lào, người ta mới cắt công việc. Sau khi ai nấy đều khoác tấm áo
thụng trắng vào mình, các ông quan viên chia làm hai đội: tám ông cứ ở
bên ấy, còn tám ông nữa thì sang dãy phản bên này.
Trước rạp nổi một hồi trống cái, tiếp đến tiếng kèn tò te, rồi đến tiếng
đàn, tiếng sáo, tiếng tam, tiếng nhị.
Lâu lâu, các thứ nhạc khí đều im.
Ở dãy bên tả, một ông quan viên đứng ra đầu phản, giơ tay áo thụng
và gào một câu "Củ soát tế vật" thật dài, rồi lại ngồi xuống chỗ cũ để nói
chuyện gẫu. Dàn sáo trống phách lại thấy vi veo.
Một cái bàn đèn, hai cái bàn đèn, rồi ba cái bàn đèn, bốn cái bàn đèn.
Bốn ông mặt xanh như cỏ cùng rước bốn cái bàn đèn ở nhà khách lên trước
cửa rạp.
Người ta làm gì thế này? Hay là cụ Bá sinh thời có làm bạn với ả Phù
dung, cho nên bây giờ con cháu dùng nó để làm tế phẩm?
Không! Những ông rước ban tĩnh đó vào khỏi cửa rạp liền chia làm
hai cánh, họ đặt cái tĩnh của họ xuống phản và cùng móc túi lấy cỗ tổ tôm
để vào cái đĩa.