7
Hội thảo Khoa học Quốc tế
...
Về cơ bản, mô hình không có sự thay đổi nhiều so với mô hình cũ, xu hướng hành động được thay
thế cho biến thay đổi trong cuộc sống trong mô hình của Shapero & Sokol (1982).
Mô hình về giáo dục khởi nghiệp của Wu S.& Wu L ( 2008)
Ý định khởi nghiệp được xem như một chỉ báo về hiệu quả của các chương trình giáo dục khởi
nghiệp. Wu S.& Wu L( 2008) cho rằng, trình độ học vấn, chuyên ngành đào tạo, thành tích học tập
và giáo dục khởi nghiệp sẽ ảnh hưởng đến thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi
khởi nghiệp. Từ đó sẽ tác động đến ý định khởi nghiệp.
Mô hình về giáo dục khởi nghiệp của Schwarz & cộng sự (2009)
Theo nghiên cứu của Schwarz & cộng sự (2009), ý định khởi nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thái
độ đối với sự thay đổi, sự hấp dẫn của lợi nhuận, tính cạnh tranh và tinh thần khởi nghiệp. Ý định
khởi nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi các rào cản về môi trường, các yếu tố hỗ trợ và môi trường học
tập. Các hoạt động hỗ trợ cho doanh nhân được thấy là mạnh hơn là tự khởi nghiệp ở sinh viên ở
một vài nghiên cứu. Sự hỗ trợ tài chính tốt đã làm tăng ý định khởi nghiệp của cá nhân đối trước
việc tự làm chủ.
Mô hình về vai trò của giáo dục đối với khởi nghiệp của sinh viên Malaysia (Rengiah, 2013)
Rengiah (2013) đã đưa ra mô hình vai trò của giáo dục đối với ý định khởi nghiệp của sinh viên.
Theo đó, nội dung chương trình đào tạo khởi nghiệp, phương pháp đào tạo và vai trò kiến tạo của
các trường ĐH có ảnh hưởng đến thái độ và sự hỗ trợ của các đối tượng hữu quan đối với ý định
khởi nghiệp.
Mô hình nghiên cứu về tiềm năng khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam (Nguyễn Thu Thủy, 2015)
Nguyễn Thu Thủy (2015), các yếu tố sau đây ảnh hưởng đến tiềm năng khởi nghiệp của sinh
viên Việt Nam bao gồm 2 yếu tố chính: 1-Môi trường (Ý kiến người xunh quanh, Vị trí xã hội chủ
doanh nghiệp, Hình mẫu chủ doanh nghiệp, kinh nghiệp kinh doanh, kinh nghiệm lãnh đạo); 2- Trải
nghiệm qua quá trình đào tạo đại học cá nhân (hoạt động truyển cảm hứng, học môn khởi nghiệp,
phương thức học qua thực tế, tham gia hoạt động ngoại khóa, ngành học).
2.2. Lược khảo các công trình nghiên cứu thực nghiệm liên quan
Các nghiên cứu về ý định và hành vi khởi nghiệp trên thế giới cũng đã có khá nhiều. Nghiên
cứu của Ajzen (1991), kiểm định ý định khởi nghiệp thông qua lý thuyết dự định hành vi (TPB).
Hay nghiên cứu của Marco van & cộng sự (2008), với mô hình sự kiện khởi nghiệp (EEM). Nghiên
cứu của Schlaegel & Koenig (2014) lại tích hợp cả hai mô hình trên đồng thời bổ sung thêm một số
yếu tố mới vào mô hình ý định truyền thống. Một số nghiên cứu đã đề xuất bổ sung các biến vào
mô hình truyền thống (Hayton và Cholakova, 2012). Ví dụ như, Hmieleski & Corbett (2006) đưa ra
yếu tố sự thích ứng (proclivity for improvisation), của De Clercq & cộng sự (2013) nghiên cứu mối
quan hệ giữa khả năng nhận thức và sự hấp dẫn đối với ý định được được điều tiết bởi định hướng
học tập và niềm đam mê làm việc. Nghiên cứu của Fitzsimmons & Douglas (2011) lại tập trung vào
sự tương tác nhận thức cơ hội khởi nghiệp và tính khả thi hay ảnh hưởng của cá tính, trạng thái tâm
lý và nhân khẩu học đến ý định (Nabi & Liñán, 2013). Nghiên cứu của Walker & cộng sự (2013)
đưa vào kiểm định các yếu tố môi trường, văn hóa, thể chế và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp ảnh
hưởng đến ý định khởi nghiệp.
Các nghiên cứu về khởi nghiệp tại Việt Nam cũng đã có nhưng chỉ dừng ở mức ý định khởi
nghiệp như nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Thảo, Bùi Thị Thanh Chi (2013); Bùi Thị Thanh và
Nguyễn Xuân Hiệp (2016); Cao Quốc Việt & cộng sự (2016). Một số nghiên cứu về môi trường
kinh doanh Việt Nam và tìm hiểu các rào cản trong môi trường khởi nghiệp như nghiên cứu của
VCCI (2009); Lê Quân (2007); Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn Văn Hóa (2016). Nghiên cứu của Lê