thăm thú, lúc thì vào một quán hàng ăn bún riêu cua, bánh đúc, lúc thì trên
những con đường vắng vẻ chúng tôi cười cười, nói nói, ném mắt đuổi theo
con chích chòe tha mồi vào tổ, vừa đi vừa gặm mỗi người một chiếc bánh
đa.
Nàng kể lại tôi nghe cảnh gia đình rất vui vẻ, êm đềm của bà phủ
Vĩnh, vừa trên xe bước xuống, con bé cháu đã lon ton chạy lại đón đi, quan
anh thường thường say "khướt cù đèn" nhưng mỗi khi diễu cợt, làm hề thì
đố ai nín cười được đấy, bà chị tuy cấm cẳn, xấu ăn xấu nói nhưng nói sau
quên trước, cũng chẳng "bụng dạ" gì.
Nghe lời nói có duyên một cách lạ lùng, tôi tuy mỉm cười, nhưng thực
đau đớn, âm thầm trong dạ. Phải, tôi đau đớn lắm vì thấy cái đời hoa trôi
bèo dạt của nàng, chẳng hề được hưởng hạnh phúc chân chính của gia đình
như những ai ai.
Sung sướng quá, không bao giờ tôi đem lòng nghi ngờ nàng cả.
Nhưng điều nàng nói tự nhiên đến thế, thực thà đến thế, ngây thơ đến thế,
bảo ai mà chẳng phải tin?
Nhưng nàng phải cái tật cứ nói rườm lời khi kể chuyện lại những nhà
mà nàng lui tới, những nhà của học trò nàng thì hình như nàng cố bày đặt
cho ra những sự không đâu. Tôi đây, tôi là người đem tấm chân ái tình ra
thương yêu, kính mến nàng, muốn trong cặp mắt nàng chỉ có riêng một
mình tôi thì nàng lại cứ để trí vào những sự không đâu ra đâu sất cả!...
Nhưng đối với những người còn xanh mái tóc mà đã trải qua đủ mùi
đau khổ như nàng, mà cuộc đời từ lúc bé tới giờ chỉ là một thiên lệ sử, thì
cái tật mọn ấy, tôi cũng vẫn bỏ qua đi cho.
Chỉ độc một lần là tôi ngờ vực, hơi hơi ngờ vực.
Tối chủ nhật ấy, nàng lên phủ Vĩnh mà chẳng thấy về.
Tôi thất vọng quá!... Làm thế nào đây? Đáp ngay tàu lên phủ Vĩnh tìm
nàng chăng? Nếu thế thì cuộc tình duyên kín đáo kia lộ mất. ấy thế mà sau
một đêm trằn trọc, tôi quyết định ra ga đáp tàu lên phủ Vĩnh thì Bích Nga
đẩy cửa, mặt mày xám ngắt, bước vào. Bà phủ, chị nàng, mệt nặng!...
Nàng nói thế nào tôi cũng cho là lọt tai tất cả, cũng chẳng để ý rằng hễ
tôi hơi hỏi qua đến lẽ gì một tí là nàng liến thoắng đáp lại một thôi. Việc