Vua cười gắn đáp:
- Ngươi còn giả vờ chưa biết thì hay nghe ta kể tội đây! Ta lệnh cho ngươi
đem binh đánh Thuận Hoá dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi
thiên hạ với họ Trịnh ở Bắc Hà. Ngươi lại dám cãi lời vua đem quân Bắc
tiến. Tội thứ nhất là kháng mệnh bất trung. Phận làm con, việc hôn nhân là
do mẹ cho định đoạt. Mẹ cha mất phải hỏi ý của anh. Nay mẹ vẫn còn đó,
anh vẫn còn đây ngươi dám qua quyền mà tự tiện lấy vợ. Tội thứ hai là luân
thường bất hiếu. Ta hỏi người bất trung bắt hiếu phải xử thế nào.
Nguyễn Huệ đập đầu thưa
- Hoàng huynh là người nhân đức, thích cảnh thái bình, ghét việc binh đao
nên Hoàng huynh không muốn đem quân đánh Phú Xuân, Thuận Hoá. Đến
lúc thấy nhân dân Thuận Hoá bị quân Trịnh áp bức không sống nổi phải
trong vào nước ta nương nhờ thánh đức, Hoàng huynh liền xuống lệnh xuất
quân. Ấy bởi Hoàng huynh không phải vì đất Thuận Hoá mà vì lòng nhân
đức ra tay tế độ chúng dân. Khi em đánh chiếm Thuận Hoá xong rồi, đưa
mắt nhìn ra ngoài cõi Bắc, thấy muôn dân cũng thống khổ lầm than, nên
mới đem binh dẹp loạn. Xét về ly, tội là kháng mệnh, xét về tình là thi hành
đức lớn của Hoàng huynh. Ấy là một lẽ.
Đi đánh Trịnh cứu dân phải mượn tiếng phò Lê. Vua Lê khăng khăng đòi
nhận em làm Phò mã để danh chánh ngôn thuận mà vực nước cứu dân. Vua
Lê lúc ấy đã lâm trọng bệnh chưa biết sống chết thế nào. Nếu nhà vua
chẳng may khuất núi, việc hôn nhân ắt phải bất thành, thì còn đâu nghĩa cả
giúp dân. Nếu em về Quy Nhơn xin phép mẹ và Hoàng huynh rồi lại trở ra,
đường sá xa xôi núi sông cách trở mà vua Lê không cầm cự được lâu ngày,
thành ra lỡ việc lớn, nên em buộc lòng phải tự quyết lấy. Quả nhiên, sau
hôn lễ mấy ngày vua Lê đã băng hà. Sự thực là như thế, em nào dám gian
dối. Xét theo lý, là qua quyền bất hiếu với mẹ cha, xét theo tình là hiếu với
dân với nước. Ấy là hai lẽ. Xin Hoàng huynh hay vì hai tình ấy mà giảm
cho hai tội chết kia.
Vua Thái Đức nói:
- Ngươi khá già mồm, giỏi biện luận. Ta vì tình cốt nhục mà tha cho tội
chết chứ không phải vì những lời nguỵ biện ấy đâu.