một thông điệp nào đó. Vài mẩu giấy da đã phai mờ, vài mảnh khác cho ta
cái bóng của một hình ảnh nào đó, hay tinh anh của một hai chữ. Đôi khi
tôi nhặt được những trang giấy còn nguyên cả câu, còn thường thì nhặt
được các bìa còn nguyên, xưa kia được bảo vệ nhờ các đinh kim loại đầu
lớn… Những quyển sách ma, xác còn nhưng hồn đã tiêu tán, tuy nhiên
thỉnh thoảng tôi lại vớt được nửa trang giấy, trong đó nhận ra được tựa
sách, hay chữ đầu tựa.
Tôi thhu góp mọi thánh tích nhặt được, xếp chúng đầy hai bọc hành lý và
vất bỏ các dụng cụ khác để cứu lấy kho tàng bất hạnh này.
Trên đường về, và sau này tại Melk, tôi bỏ ra nhiều giờ cố đọc những mẩu
giấy sót lại này. Từ một chữ hay hình ảnh, tôi thường nhận ra được nó
thuộc tác phẩm nào. Về sau, khi tôi tìm được các bản sao khác của những
tác phẩm đó, tôi âu yếm nghiên cứu chúng, như thể số mệnh đã để lại cho
tôi di sản này. Cuối thời gian tái tạo kiên nhẫn của tôi, tôi có trước mặt một
thư viện nhỏ, biểu tượng của một thư viện lớn hơn đã tan biến, một thư
viện bằng các mảnh giấy, trích dẫn, câu viết dang dở và các thân thể sách
què cụt.
o0o
Tôi càng đọc đi đọc lại các danh mục này thì càng tin rằng nó chỉ là một kết
quả ngẫu nhiên và chẳng chứa đựng một thông điệp nào cả. Nhưng những
trang sách không toàn vẹn đó đã theo tôi suốt quãng đời còn lại. Tôi thường
giở chúng ra xem như một lời sấm truyền, và gần như tin rằng những gì tôi
viết trên những trang giấy này mà quí vị độc giả chưa quen nào đó đang
đọc, chỉ là một bài thơ chắp vá, một bài thánh ca tưởng tượng, một bài
acrostic [1] bao la, mà chẳng nói lên hay nhắc lại điều gì ngoài những ý các
mẩu sách đó đã gợi cho tôi. Tôi cũng không biết mình đã nói về chúng hay
chúng nói qua miệng mình bao xa. Nhưng dù bất kỳ một trong hai khả năng
này đúng đi nữa, tôi càng nhủ lòng câu chuyện này phát sinh từ chúng bao
nhiêu, thì tôi càng không hiểu phải chăng có một mưu định vượt ra ngoài