hắn làm tôi buồn nôn. “Cô ta sẽ bị cảm lạnh mất,” hắn nói với đám lính.
“Đảm bảo là cô ta có áo khoác đấy.”
Bọn lính chĩa súng về phía tôi (Loại XM-2500, tầm bắn 700m, đạn đầu
tròn, có thể xuyên qua hai lớp xi măng) rồi đẩy tôi đi. Trong suốt chuyến
tàu, tôi đã quan sát hai tên lính này với sự chăm chú tột độ đến mức hẳn là
bây giờ các dây thần kinh của chúng phải nổ tung rồi.
Còng tay tôi va vào nhau leng keng. Với những khẩu súng như vậy, chỉ
cần một phát đạn là tôi sẽ chết vì mất máu bất kể viên đạn găm vào vị trí
nào trên thân thể tôi. Có lẽ chúng cho rằng tôi rắp tâm cướp một khẩu súng
nhân lúc chúng mất cảnh giác (Một phỏng đoán ngớ ngẩn, vì khi bị còng
tay thì tôi chắc chắn không thể ngắm bắn chính xác).
Bây giờ chúng giải tôi dọc lối đi đến cuối toa tàu, nơi bốn tên lính nữa
đang đợi ở cánh cửa để mở dẫn xuống sân ga. Một cơn gió lạnh lùa tới và
tôi vội vã hít vào trong lồng ngực. Lần duy nhất anh Metias và tôi thực hiện
một nhiệm vụ chung, tôi từng ở gần mặt trận, nhưng đó là ở Tây Texas mùa
hè. Tôi chưa từng đặt chân đến một thành phố ngập trong tuyết như thế này.
Thomas chen lên trước đoàn diễu hành nhỏ và ra hiệu cho một tên lính
choàng áo khoác cho tôi. Tôi cảm kích đón nhận.
Đám đông (khoảng chín mươi đến một trăm người) lặng ngắt khi thấy bộ
quần áo màu vàng nhạt của tôi, và khi bước xuống cầu thang tôi có thể cảm
thấy sự chú ý của họ như ngọn đèn nóng hừng hực thiêu đốt tôi. Hầu hết
đều run rẩy, gầy gò và nhợt nhạt trong những bộ đồ xác xơ không thể giữ
ấm cho cơ thể họ trong thời tiết này, chân đi những đôi giày thủng lỗ chỗ.
Tôi không thể hiểu nổi. Bất chấp cái lạnh, họ vẫn đến đây để nhìn thấy tôi
ra khỏi tàu - và ai mà biết được họ đã chờ ở đó bao lâu. Đột nhiên tôi thấy
áy náy vì đã tiếp nhận chiếc áo khoác.
Chúng tôi đi đến cuối sân ga và đang chuẩn bị vào trong sảnh thì tôi
nghe thấy một người la lên. Tôi quay phắt sang trước khi đám lính có thể