sáu toa tàu. Tôi quay lại nhìn thằng bé lần cuối. “Anh xin lỗi. Anh phải đi.”
Tôi như đứt ruột khi thốt ra những từ đó.
Thằng bé lại khóc. Hai tay nó đập mạnh vào lớp kính lồng trụ dày cộp.
“Không!” Giọng nó lạc đi. “Em đã nói cho anh mọi điều em biết… Xin
đừng bỏ em ở lại đây!”
Tôi không thể chịu nổi nếu phải nghe thêm. Tôi ép mình trèo lên những
thanh chốt bên hông một cánh cửa trượt tới sát trần toa tàu để bám được
vào mép tấm bịt tròn trên nóc. Tôi lại đu người ra ngoài hòa mình vào màn
đêm, quay về với cơn mưa tuyết đang châm vào mắt, quất băng giá vào mặt
mình và cố gắng lấy lại bình tĩnh. Tôi thấy hổ thẹn với bản thân. Thằng bé
đó đã giúp tôi hết sức có thể, và đây là cách tôi đền ơn nó sao? Bằng cách
chạy thoát thân?
Đám lính đang kiểm tra các toa tàu cách đó năm mươi mét. Tôi đẩy tấm
bịt về chỗ và áp chặt người vào nóc toa tàu bò cho tới khi đến được bên rìa.
Tôi đu người xuống và tiếp đất.
Pascao dần hiện ra từ bóng đêm, đôi mắt xám nhạt sáng lên trong bóng
tối. Anh chắc hẳn đang tìm tôi. “Thế quái nào mà cậu lại ở đây vậy?” anh
thì thầm. “Lẽ ra cậu phải đang quậy gần vụ nổ chứ, đúng không? Cậu đã ở
đâu vậy?”
Tôi không có tâm trạng để ra vẻ tử tế. “Giờ không phải lúc,” tôi cáu
kỉnh, bắt đầu chạy bên cạnh Pascao. Đến lúc quay lại hầm ngầm rồi. Mọi
thứ lướt qua chúng tôi trong màn sương mờ ảo.
Pascao há miệng định nói gì đó, nhưng rồi nhìn mặt tôi lại do dự và
quyết định ngừng lại. “Ờ…” anh lại bắt đầu, lần này lặng lẽ hơn, “Chà, cậu
làm tốt rồi, có lẽ đã loan tin cậu còn sống, thậm chí chẳng cần mấy trò pháo
hoa thêm vào. Quả leo lên nóc nhà của cậu khá là kinh ngạc đấy. Sáng mai,