sân rộng. Sứ giả có thể ngồi trước lều riêng của mình tha hồ nhìn ngắm: đại
hãn có thân hình vạm vỡ nổi bật giữa đám thân vương, cận tướng, đang say
sưa đuổi theo trái banh, chụp lấy, liệng bay vút đi. Mỗi lần thắng được một
trái banh, vị chúa cười giòn dã, vui nhộn như trẻ con …
Một hôm, thừa lúc đại hãn cỡi ngựa đi quanh trại, sứ giả ra đứng bên
đường vờ như tình cờ gặp mặt. Thành Cát Tư Hãn dừng ngựa lại bảo người
thông ngôn hỏi:
- Sao hôm rồi ngươi không ra đấu banh với bọn ta? Trận đấu hôm ấy
thật là hào hứng!
Sứ giả ngạc nhiên khiêm tốn đáp:
- Thần không có cái hân hạnh được mời tham dự.
- Hừ! Tại sao phải đợi mời! Nếu người thích thì cứ tham gia chứ có
gì!
Thế là bữa cơm chiều hôm đó, vì tội không ra chơi banh, sứ giả bị
bọn triều thần phạt rượu đến say mèm phải khiêng về trại.
Một lần nữa, mới vừa mở miệng hỏi đại hãn được ít tiếng về đề nghị
của triều Tống thì đại hãn cắt ngang, đáp một câu vắn tắt: “Ta đã nghị hòa
với vua Kim”.
Luôn ba năm bị tàn phá, giết chóc khủng khiếp như thế tưởng nước
Kim đã tê liệt, không ngờ mới có ba tháng hòa bình đã trỗi dậy mạnh mẽ!
Những đô thị bị thiêu hủy được xây cất lại, những thành lũy đã san bằng
đều dựng trở lại. Mới cam kết nhìn nhận nền độc lập của Liêu – đông, bây
giờ họ lại xua một đạo quân hùng hậu qua đánh chiếm trở lại: chỉ có mấy
tuần quân Liêu – đông đại bại, thành Liêu – dương mất, vua Liêu phải đào
tẩu.
Đám vệ binh của hoàng đế Kim theo hộ giá lúc di đô phần lớn là người
Liêu. Vừa tới Khai phong họ được lịnh phải nạp khí giới và ngựa lại. Họ
biết ngay là sẽ bị loại ra liền nổi lên giết tướng chỉ huy, cử người của họ lên
thay thế rồi kéo nhau trở lên miền Bắc. Hay tin, triều đình liền phái một
đạo quân đuổi theo, một đạo khác án ngữ trên mặt Bắc, chận họ lại. Trong