hàng quý tộc và cận tướng phải về Mông-cổ, bấy giờ mới được phát tang
(I8 tháng 8 năm 1227).
Quân Mông-cổ triệt thoát ra khỏi Tây-hạ, lục tục kéo về nước. Trên đường
hồi hương họ ca hát cười đùa như không có việc gì xảy ra, chỉ có khác là
ngựa phi mau hơn lệ thường. Các binh đoàn ở xa như Khâm-sát, Nãi-man,
Liêu-đông cũng kéo về, có vẻ gấp rút hơn, nhưng theo lịnh của bộ Tổng
tham mưu phải trẩy đi như ra chiến trường.
Lúc sau nầy, trước viên môn của đại hãn bao giờ cũng có một cây giáo cắm
mũi xuống đất báo hiệu vị Chúa tể đang lâm bịnh nặng. Không một ai được
phép vào, trừ các vương tử, cận tướng và quân sư Chu-Thai. Quân túc vệ
gác ngày đêm cực kỳ nghiêm ngặt, kín như một vòng tường sắt. Chỉ có một
lần cửa hé ra cho bọn thái tử Tây-hạ vào, nhưng ít phút sau họ chỉ còn là
những cái xác đậy kín khiêng trở ra hấp tấp. Lần lượt tất cả lều trại trong
khu vực Đại bản doanh đều được hạ xuống xếp lại, sau rốt tới viên môn của
đại hãn. Ở bốn phía, quân các trại cũng thu xếp lên đường, cuối cùng mới
đến quân túc vệ. Họ án khắp bốn phía chiếc xe chở quan tài của đại hãn
thành một vòng nhân tường dày đặc, khiến cho những cặp mắt tò mò đến
đâu cũng không thấy được. Cỗ xe tang tiến đến đâu thì những kẻ lảng vảng
ở trên đường hay ở trong những xóm nhà lân cận đều bị hạ sát không sót
một người; trên suốt con đường, chiếc xe tang thầm lặng để lại phía sau
toàn là thây người ngổn ngang. Tất cả các giống sinh vật từ người đến thú,
chim, rắn...hễ vô phúc lọt vào tầm mắt của quân túc vệ là bị đuổi theo đến
kỳ cùng. Cứ như thế cỗ xe tang vượt qua núi đồi, qua sông hồ, qua rừng
rậm, qua sa mạc.
Chỉ một lần cái im lặng tang tóc bị cắt đứt lúc bốn bánh xe lún xuống đất
sét xanh, ngựa khỏe nhất cũng không làm sao kéo lên được. Thân vương
Gia-Ganh, viên tướng chỉ huy túc vệ phải cất cao giọng hát lên: ”Hỡi đại
hãn, Chúa tể của dân Mông-cổ! Ngài nỡ nào để cho nhân dân xôn xao và
đâu lẽ ngài lại muốn nằm giữa chốn hoang vu này! Thần dân của Ngài đang