Dinh Đa. Tô Ha Rin phải chia quân ra đánh hai mặt. Toán Mông cổ ở chân
đồi chống cự cực kỳ anh dũng, đánh bật hàng chục đợt tấn công của địch.
Tang Côn bị lão tướng Dược Sơ Đài bắn một phát tên trúng mặt rơi xuống
ngựa.
Tô Ha Rin thấy không thể giải quyết trận đánh trong một ngày được
liền thu quân và đóng trại nghỉ ngơi. Họ không sợ bị phản công vì quân
Mông cổ đã kiệt lực. Một số lớn quân thiện chiến đều tử trận, nhiều tướng
tài bị thương nặng. Bác Nhĩ Truật, Bác Khô La, Oa Khoát Đài – con thứ ba
của Thiết Mộc Chân – đều mất tích.
Nghe các tướng báo cáo những tổn thất, mặt Thiết Mộc Chân vẫn thản
nhiên, ông chỉ nói vắn tắt: “Hai viên tướng đó đều là bạn trung thành của
chúng ta. Họ cùng chết một lượt vì họ không bao giờ muốn xa nhau.”
Nhưng một lát sau Bác Nhĩ Truật trở về, kế đó Bác Khô La trên lưng
ngựa đèo thêm Oa Khoát Đài nằm sóng sượt như một cái xác, Bác Khô La
mặt bê bết máu vì ông ta vừa nút vết thương của Oa Khoát Đài. Trước cảnh
này Thiết Mộc Chân không sao cầm được giọt lệ, nhưng vẫn không chịu bỏ
cuộc, cho dời thương binh đi và tìm cách săn sóc họ.
Trong tình trạng này ngày mai làm sao có thể tái chiến? Ai nấy đều cảm
thấy chỉ còn một cách là rút chạy gấp nếu không chắc chắn sẽ bị tiêu diệt.
Các tướng đều đồng thanh xin Thiết Mộc Chân cho lịnh rút quân, nhưng
ông lắc đầu: nếu đại quân rút trước thì cánh quân ở bên đồi sẽ bị thảm sát.
Theo ông thà tử chiến với quân địch để cùng chết chớ không thể bỏ những
chiến sĩ trung kiên. Cho đến lúc người lính cuối cùng ở bên đồi về tới, ông
mới cho cấp tốc nhổ trại, thúc quân mã đem hết tàn lực ra tẩu thoát.
Về sau khi trở thành vị Chúa của toàn thể dân du mục, Thiết Mộc Chân
nâng mối tình thuỷ chung ấy lên thành một thứ luật sắt. Đơn vị nhỏ nhất
của quân đội gồm có chín người với một Thập phu trưởng phải cùng sống