hóa mà mọi quân lính đều phải biết để soạn lệnh theo vần. Các
quân lính Mông Cổ sử dụng một bộ các giai diệu và phong cách thơ
cố định để sáng tác từ ngữ dựa theo nghĩa của thông điệp. Với quân
lính, nghe lời nhắn giống như học thêm một lời mới của một bài hát
họ đã biết.
Quân lính, như các đoàn kỵ sĩ thảo nguyên ngày nay, thường
xuyên hát khi cưỡi ngựa trên dường cùng nhóm nhỏ của mình. Họ
hát không chỉ về những thứ quân lính vẫn thường hát – quê hương,
phụ nữ, và chiến đấu – lính Mông Cổ còn hát về luật lệ và cách cư
xử, những điều cũng đã được phổ nhạc để ai cũng biết. Bằng cách
học thuộc luật và liên tục luyện tập khuôn mẫu của bài hát-thông
điệp, bất kỳ lúc nào họ cũng sẵn sàng học một thông điệp mới như
lời mới của những bài hát nằm lòng này, và truyền nó tới nơi theo
lệnh.
Tuy có những bất lợi khi phải đánh nhau trên một miền đất xa lạ
và bị áp đảo về quân số, Thành Cát Tư Hãn có lợi thế kinh nghiệm
từ cả cuộc đời chinh chiến, và ông biết rõ quân lính của mình. Nhiều
người trong số họ đã đồng hành với ông suốt hơn một phần tư thế
kỷ, và vài vị tướng như Boorchu và Jelme đã ở bên cạnh ông gần
bốn mươi năm. Ông biết rằng ông có thể tin tưởng giao cho họ các
chiến dịch dài, xa khỏi tầm kiểm soát của mình. Ông cũng hiểu rõ
điểm mạnh về điểm yếu của từng vị tướng. Jebe, một trong những