Người Mông Cổ không thể hiểu được lối sống của người làm
nông nghiệp. Lãnh thổ của người Nữ Chân rất đông người, song lại
có rất ít gia súc; điều này đối lập hoàn toàn với Mông Cổ, nơi cứ một
người thì có năm tới mười con vật. Với người Mông Cổ, đồng ruộng
hay vườn tược của nông dân chỉ như thảo nguyên, và nông dân chỉ
như súc vật gặm cỏ, chứ không phải người ăn thịt. Người Mông Cổ
dùng từ ngữ họ dùng cho bò và dê để gọi những người ăn cỏ này.
Đám đông người nông dân chỉ là một số lượng lớn đàn gia súc, và
khi quân lính tới để bố ráp hay đưa người dân đi, họ làm vậy với
cùng từ ngữ, độ chính xác, và cảm xúc như thể họ đang vây bò
rừng.
Các đội quân truyền thống của thời kỳ này coi các ngôi làng là
kho tàng để cướp bóc, và dân chúng là gánh nặng mà họ có thể
cưỡng bức, tàn sát, hay loại bỏ theo bất kỳ cách nào thuận tiện.
Ngược lại, người Mông Cổ – vốn luôn bị áp đảo về quân số ở mọi
nơi họ xâm lược – sử dụng sức người đông đảo một cách có chiến
lược. Chiến lược bao vây gia súc của kẻ thù và để chúng chạy về
phía chiến tuyến hay nơi ở của chủ, vốn đã tồn tại từ lâu trên thảo
nguyên, được các chiến binh Mông Cổ thay đổi và áp dụng nhằm
khiến đám lính chuẩn bị xông trận hoang mang. Trong trận đánh
quân Nữ Chân, quân Mông Cổ dùng chiến thuật này với gia súc của
nông dân. Họ chia thành nhiều nhóm nhỏ tấn công các ngôi làng
không phòng vệ, đốt nhà và đuổi dân chúng ra ngoài. Những người
nông dân hoảng loạn bỏ chạy tán loạn. Họ làm nghẽn đường cái,
khiến xe lương của quân Nữ Chân không thể di chuyển được. Trong