xoa dịu. Ông trích lời cha mình rằng mọi vấn đề quân sự cần được
giải quyết trên thảo nguyên, rồi bảo tất cả con cháu mình tiếp tục
cuộc chinh phục Âu châu.
Châu Âu vốn không nghe nói nhiều về những cuộc chinh phục
trước đó của Thành Cát Tư Hãn ở châu Á, và chỉ biết chút ít về việc
ông đánh bại đế quốc Khwarizm – nhưng đột nhiên, khi Kiev thất
thủ, một làn sóng người tị nạn và chuyện kể tràn ra từ Đông Âu.
Bám sát gót họ, dường như từ mọi hướng, là những kỵ sĩ Mông Cổ
đáng sợ. Matthew Paris viết rằng quân Mông Cổ xâm lược phương
Tây “như chớp giật trên lãnh thổ người Ki-tô giáo, tàn phá cả đất
nước, giết người không ghê tay, và khiến tất thảy đều kinh hoàng
không thể diễn tả được.” Đây có lẽ là lần đầu tiên kiểu chiến tranh
“chớp giật” này được nhắc tới, sau này nó được biết đến bằng tên
gọi tiếng Đức Blitzkrieg
Tốc Bất Đài ra lệnh cho một đội quân năm vạn người đi theo ba
hướng tới Hungary ở phía nam, và một đội quân hai vạn người băng
ngang Ba Lan tới Đức ở phía bắc để đánh lạc hướng. Quân Mông
Cổ càn quét suốt chừng bốn ngàn dặm từ quê hương Mông Cổ qua
vùng đồng bằng Đông Âu tới Ba Lan và Hungary – tới hẳn tường
thành Vienna và các thành phố của các Hiệp sĩ Dòng Teuton
và
Liên minh Hanse
ở Đức. Ở phía bắc, họ băng ngang Ba Lan như
đá sỏi bắn ngang hồ băng. Quân Mông Cổ đi tới đâu, các thành phố
sụp đổ tới đó. Công tước Henry Đệ Nhị vùng Silesia
đội quân ba vạn lính, bao gồm các hiệp sĩ từ khắp nơi trên nước