Đức, Pháp và Ba Lan; trong lúc kêu gọi tòng quân bắt buộc, ông đã
hoảng sợ tới mức triệu tập cả một nhóm thợ đào vàng để đánh giặc.
Ngày 2 tháng Tư năm 1241, hai đội quân gặp nhau ở Liegnitz, gần
biên giới Đức – Ba Lan ngày ngay. Quân Mông Cổ chọn một khoảnh
đất trống cách thành phố khoảng sáu dặm. Chiến trường này sau
này trong tiếng Đức được gọi là Wahlstatt, “nơi được chọn.”
Công tước Henry ra lệnh cho kỵ binh tấn công quân Mông Cổ.
Quân Mông Cổ đẩy lùi đợt tấn công thứ nhất, nhưng có vẻ lép vế
vào đợt hai và rồi đột nhiên bỏ chạy. Các hiệp sĩ châu Âu hò reo
chiến thắng, phá hàng ngũ và bắt đầu đuổi theo quân địch. Quân
Mông Cổ rút quân từ từ, chỉ ngoài tầm với của vũ khí mà các hiệp sĩ
dùng một chút. Để rồi ngay khi ngựa châu Âu bắt đầu mệt mỏi dưới
sức nặng của bộ giáp của người cưỡi, xung quanh họ đột nhiên rầm
rầm tiếng nổ và khói bao trùm khắp nơi, khiến tất cả đều rất hoang
mang. Theo lời nhà chép sử Jan Dlugosz, trên chiến trường quân
Mông Cổ sử dụng một công cụ trông giống “một cái đầu lớn, từ
trong đó bùng ra một đám mây với mùi kinh tởm bao trùm quân Ba
Lan và khiến họ chỉ chút nữa là ngất xỉu, và không thể giao chiến
được.” Sự ồn ào và khói tách các hiệp sĩ châu Âu khỏi lính bắn cung
và bộ binh đang ở rất xa phía sau. Một lần nữa, quân Mông Cổ đã
lừa cho quân giặc quá tự tin rồi dụ họ vào bẫy chết người. Các hiệp
sĩ – phân tán, thiếu tổ chức, hoang mang, và mệt mỏi – trở thành
mục tiêu dễ dàng cho quân Mông Cổ; họ quay ngựa và bắt đầu bắn
hạ quân địch.