thường rằng chúng không đi kèm muối hay bánh mì. “Tôi ăn một
chút. Cứ như vậy họ ngồi tới khi trời tối.” Lễ nhà thờ và bữa tiệc
Giáng Sinh kết thúc khi “hoàng hậu, giờ đã say khướt, đi lên xe kéo
trong lúc các tu sĩ hô vang và ca hát, còn bà đi đường riêng của
mình.”
Những người theo đạo Ki-tô ở Mông Cổ nhấn mạnh mối liên hệ
giữa Chúa và ánh sáng, nhất là Ánh dương Hoàng kim linh thiêng
trong thần thoại của họ, họ coi Chúa là biểu tượng của sự hồi phục
và chiến thắng của cuộc sống trước cái chết. Dù có chung tôn giáo,
Rubruck rất coi thường những người theo đạo Ki-tô dòng Assyria,
Armenia và Chính thống trong triều đình Mông Cổ. Vì ông coi tất cả
những ai không theo Công giáo là những kẻ dị giáo, ông gọi tất cả
những người theo dòng Assyria ở triều đình Mông Cổ là người
Nestorian, bắt nguồn từ Nestorius, Trưởng phụ ở Constantinopolis ở
thế kỷ năm, người đã bị Hội đồng Ephesus buộc tội dị giáo vào năm
431. Một trong những đức tin của dòng Assyria mà Rubruck cho là
dị giáo là việc họ tin rằng Đức mẹ Mary là mẹ của Chúa Hài đồng,
nhưng không phải mẹ của Chúa trời. Khác người Công giáo, họ
cương quyết không vẽ hình Chúa trên cây thánh giá, bởi cảnh chết
chóc hay máu me là cấm kỵ với người Mông Cổ. Ngay cả khi họ
nhận mình là người Ki-tô giáo, người Mông Cổ không coi tôn giáo là
danh tính chính của họ. Một vị tướng Mông Cổ theo Ki-tô giáo giải
thích rằng ông không phải tín đồ Ki-tô giáo – ông là người Mông Cổ.