trả nợ khiến Juvaini phải hỏi: “Trong sử sách đã bao giờ có
chuyện… một vị vua trả nợ cho một vị vua khác?”
Trong thế giới thương mại không quen việc tiêu tiền giấy, Mông
Kha hiểu được tầm quan trọng của việc bảo toàn niềm tin và sự
trong sạch của hệ thống tiền tệ. Ngay trước khi qua đời vào năm
1227, Thành Cát Tư Hãn đã cấp phép sử dụng tiền giấy với nguồn
bảo đảm là kim loại quý và lụa. Việc này tiến triển chậm chạp trong
những năm sau này, nhưng tới thời Mông Kha, nguồn tiền giấy cần
phải bị giới hạn theo những cách khác với những đồng xu vàng bạc.
Mông Kha nhận ra mối nguy từ việc xuất tiền giấy và ghi nợ ngay lập
tức mà không có kế hoạch mà các triều đại trước thường làm, vậy
nên năm 1253, ông lập ra Bộ Tiền tệ để kiểm soát và chuẩn hóa việc
sản xuất tiền giấy. Người đứng đầu bộ nắm mọi quyền lực để tránh
việc lưu hành quá nhiều tiền giấy và tiền mất giá do lạm phát.
Mông Cổ cho phép các nước chư hầu tiếp tục sản xuất xu dưới
các đơn vị và trọng lượng như xưa, nhưng họ thiết lập một đơn vị
chung dựa trên sukhe – một nén bạc chia thành năm trăm phần, và
các đơn vị tiền tệ địa phương đều phụ thuộc vào đó. Việc chuẩn hóa
các đơn vị tiền tệ khác nhau này dựa trên sukhe giúp việc tính toán
tiền nong và quy đổi tiền tệ dễ dàng hơn cho cả thương nhân và
quan lại triều đình. Do vậy, tiền bạc được chuẩn hóa giúp Hãn Mông
Kha thu thuế bằng tiền mặt thay vì hàng hóa địa phương. Tương tự,
việc cho lưu hành tiền giấy cho phép triều đình chuẩn hóa các thủ
tục lên kế hoạch ngân sách, bởi họ dần thu thuế bằng tiền mặt thay