thành các cổ đông, nhưng họ không có kỹ năng hay thể hiện mong
muốn tự trở thành nhà buôn.
Việc giới thượng lưu Mông Cổ can thiệp sâu vào giao thương
khác hẳn với truyền thống. Từ Trung Hoa tới châu Âu, giới quý tộc
thường coi việc buôn bán là không đàng hoàng, bẩn thỉu, và thường
là cả vô đạo đức; cùng với lối buôn bán thủ công, nó được coi là quá
thấp kém với người có quyền và kẻ sùng tín. Hơn nữa, nền kinh tế
lý tưởng tại châu Âu phong kiến thời kỳ này không chỉ đơn giản là
mỗi đất nước nên có khả năng tự cung tự cấp, mà mỗi lãnh địa cũng
cần cố gắng tự chu cấp trong khả năng có thể. Các hàng hóa rời
khỏi lãnh địa không nên được dùng để đổi lấy các mặt hàng khác
cho nông nô sống trên lãnh địa, mà để mua trang sức, thánh tích và
các món hàng xa xỉ khác cho gia đình quý tộc hay nhà thờ. Các lãnh
chúa phong kiến nên để nông dân tự giải quyết các nhu cầu của họ
– tự sản xuất lương thực, trồng cây lấy gỗ, làm công cụ và dệt quần
áo – và buôn bán ít nhất có thể. Trong hệ thống phong kiến, phụ
thuộc và hàng hóa từ bên ngoài ám chỉ một sự thất bại bên trong.
Các vương quốc Trung Hoa truyền thống bị giới hạn buôn bán
suốt nhiều thế kỷ. Việc xây dựng tường thành ở biên giới là một
cách hạn chế buôn bán và giữ của cải của quốc gia nguyên vẹn bên
trong các bức tường, theo đúng nghĩa đen. Với vua chúa, bán đi
hàng hóa cũng có nghĩa là cống nạp cho các nước láng giềng, và họ
tránh làm việc này nhiều nhất có thể. Mông Cổ đánh thẳng vào định
kiến văn hóa Trung Hoa cho rằng thương nhân chỉ hơn kẻ cắp một