để định hướng và học cách làm ra các biểu đồ hải lý chuẩn xác hơn.
Đường từ cảng Tuyền Châu ở Nam Trung Hoa tới Hormuz ở vịnh
Ba Tư trở thành mạch biển chính nối vùng Viễn Đông với Trung
Đông, và được Marco Polo, Ibn Battuta cũng như nhiều người khác
sử dụng.
Trên đường đi, các con tàu cũng cập các bến cảng tại Việt Nam,
Java, Ceylon và Ấn Độ, cũng như ở mọi nơi các đại diện Mông Cổ
tìm thấy các mặt hàng mới như đường, ngà voi, quế và bông – vốn
không dễ sản xuất tại quê hương. Từ vịnh Ba Tư, tàu đi tiếp tới các
khu vực nằm ngoài ảnh hưởng của Mông Cổ để thực hiện buôn bán
đều đặn với nhiều hàng hóa đa dạng hơn nữa từ bán đảo Ả-rập, Ai
Cập và Somali. Vua chúa và thương nhân ở những nơi này không
tuân theo hệ thống chia phần như với hàng hóa Mông Cổ; thay vào
đó, quan lại Mông Cổ thiết lập quan hệ buôn bán lâu dài với họ.
Được Mông Cổ bảo hộ, các nước chư hầu trở thành những đối thủ
kinh tế đáng gờm như chính quân Mông Cổ trên chiến trường, và họ
bắt đầu chiếm lĩnh thị trường vùng Ấn Độ Dương.
Để mở rộng việc buôn bán tới những vùng bên ngoài tầm ảnh
hưởng chính trị, Mông Cổ khuyến khích dân các nước chư hầu, đặc
biệt là người Nam Trung Hoa, di cư để mở trạm buôn bán ở các
cảng nước ngoài. Xuyên suốt triều đại Nguyên Mông, hàng ngàn
người Trung Hoa đã rời bỏ quê hương và lên tàu tới định cư ở vùng
ven biển của Việt Nam, Campuchia, bán đảo Mã Lai, đảo Borneo,
Java và Sumatra. Họ chủ yếu làm trong ngành vận chuyển đường