đặt lên dân chúng, họ sẵn lòng thu nhận và kết hợp các hệ thống
của mọi nơi khác. Không có liên hệ văn hóa sâu sắc với những vùng
này, họ đặt ra các giải pháp thực tiễn thay vì lý thuyết. Họ tìm kiếm
những gì hiệu quả nhất; và khi tìm ra, họ đưa chúng tới những nước
khác. Họ không phải lo lắng xem liệu kiến thức thiên văn của họ có
phù hợp với giáo huấn trong Kinh Thánh không, liệu cách viết của
họ có tuân theo các nguyên tắc do quan lại Trung Hoa đặt ra không,
hoặc các imam Hồi giáo có không đồng tình với cách in và vẽ của
họ. Người Mông Cổ có quyền – ít nhất là trong lúc này – để đặt ra
các hệ thống công nghệ, nông nghiệp và tri thức mới thay thế các ý
thích hay định kiến của bất kỳ nền văn minh nào, và qua đó phá vỡ
độc quyền tư tưởng của giới tinh hoa địa phương.
Khi chinh phục đế quốc của mình, người Mông Cổ không chỉ
cách mạng hóa chiến tranh, họ còn tạo ra hạt nhân cho một nền văn
hóa và hệ thống toàn cầu đồng nhất. Nền văn hóa toàn cầu này tiếp
tục phát triển suốt một thời gian dài sau khi triều đại Nguyên Mông
sụp đổ, và nhờ sự phát triển liên tục trong các thế kỷ sau này, nó trở
thành nền tảng cho hệ thống thế giới hiện đại, nhấn mạnh vào
những điều Mông Cổ coi trọng như giao thương tự do, liên lạc rộng
mở, chia sẻ tri thức, chính trị tách rời với tôn giáo, các tôn giáo song
song tồn tại, luật quốc tế và sự miễn trừ ngoại giao.
Dù chưa bao giờ bị Mông Cổ cai trị, về nhiều mặt, châu Âu thu
lợi nhiều nhất từ hệ thống toàn cầu của họ. Châu Âu nhận được mọi
lợi ích về buôn bán, chuyển giao công nghệ, và sự Thức tỉnh Toàn