quả hơn. Hãn Hốt Tất Liệt mở Quốc Sử Viện vào những năm 1260.
Theo tục lệ Trung Hoa, ông yêu cầu tổng hợp toàn bộ lịch sử các
vương quốc Nữ Chân và Khiết Đan cũng như của nhà Tống. Đây có
lẽ là công trình lịch sử lớn nhất từng được đưa ra và mất gần tám
mươi năm – tới những năm 1340 – để hoàn thành. Ở Ba Tư, Y Nhi
Hãn Gazan ra lệnh cho Rashid al-Din, người kế nhiệm Juvaini, viết
cuốn lịch sử thế giới đầu tiên. Rashid al-Din sắp xếp một nhiệm vụ
quy mô lớn đòi hỏi nhiều học giả và nhà dịch thuật để ghi lại lịch sử
Trung Hoa, người Turk và người Frank – cách người Mông Cổ gọi
người châu Âu.
Khối lượng thông tin trong Đế chế Mông Cổ yêu cầu cách phổ
biến mới. Các nhà chép sử không còn đủ sức chép tay mọi thông tin
cần được viết ra. Họ biên soạn các ghi chép, viết thư, và gửi tin tới
người cần nhận, nhưng họ không có thời gian sao chép sách hướng
dẫn nông nghiệp, luận thuyết y học, atlas, hay bảng thiên văn.
Thông tin cần phải được xuất ra với số lượng lớn để truyền bá trên
diện rộng. Để thực hiện việc này, người Mông Cổ một lần nữa lại
trông cậy vào công nghệ – vào in ấn.
Mông Cổ áp dụng công nghệ in từ rất sớm. Bên cạnh các bản in
được Thoát Liệt Ca Na bảo trợ dưới thời chồng bà trị vì, từ năm
1236 Oa Khoát Đài đã ra lệnh thành lập nhiều xưởng in ở lãnh thổ
của Mông Cổ ở phía bắc Trung Hoa. Công nghệ in bằng các con
chữ di chuyển được có lẽ đã ra đời ở Trung Hoa từ giữa thế kỷ
mười hai, nhưng chính người Mông Cổ mới áp dụng nó trên quy mô