rập và Do Thái bị cắt bao quy đầu, những người khác bị khắc dấu
lên lông mày, những người khác nữa lại bị rửa tội.” Ông cũng nhắc
tới việc người Mông Cổ thấy các tục lệ và giáo lý của Ki-tô giáo rất
khó hiểu, đặc biệt là “trong các hình thức hiến tế có hiến tế của đạo
Ki-tô, tức là họ ban bánh mì và rượu vang và nói đó là thân thể và
máu của Chúa. Họ ăn và uống những thứ hiến tế này sau lễ dâng
bánh – quả là đáng ghê tởm. Họ ăn cái họ thờ.”
Nhân vật Tatar giả tưởng này nhắc lại chính xác những lời Hãn
Mông Kha đã nói với sứ giả Pháp khi ông phê phán sự thù địch nguy
hiểm giữa các tôn giáo trên thế giới: “Nghe theo lời dạy bảo của
Chúa là đúng đắn. Nhưng người Do Thái nói họ nhận được những
lời răn này từ Moses, người Ả-rập từ nhà tiên tri Mohammed, và
người Ki-tô giáo từ chúa Jesus. Và có lẽ cũng có các quốc gia khác
tôn sùng các nhà tiên tri của họ và nhận các giáo lý linh thiêng từ tay
những nhà tiên tri ấy. Do vậy, làm sao chúng ta có thể đồng thuận
được?” Câu trả lời của người Mông Cổ là sự hòa hợp tôn giáo cơ
bản chỉ có thể đạt được khi tất cả các tôn giáo đều dưới quyền nhà
nước.
Chuyến viếng thăm của các sứ giả Mông Cổ như Rabban Bar
Sawma cho người châu Âu một cái nhìn hoàn toàn khác về những
người Mông Cổ xa xôi và khác lạ. Không còn cảm thấy bị họ đe doạ,
người châu Âu bắt đầu nhìn thấy ở đế quốc của Thành Cát Tư Hãn
một lối sống khác đáng tò mò, khác với xã hội của chính họ. Nếu
các nhà văn dùng người Hồi giáo để đại diện cho mọi thứ họ khinh