Là những kẻ chinh phạt ngoại bang, Mông Cổ vốn được dân
chúng nhân nhượng dù đông hơn có khi gấp một ngàn lần, bởi họ
tiếp tục mang tới dòng chảy buôn bán lớn ngay cả khi quyền lực của
quân đội không còn. Sau dịch hạch, khi cả việc buôn bán lẫn viện
trợ quân sự từ những người Mông Cổ khác đều khó xảy ra, mỗi
nhánh Hoàng tộc của Thành Cát Tư Hãn phải tự xoay xở trong một
môi trường ngày càng khó đoán định và có thể dễ dàng trở nên thù
địch. Thiếu cả hai lợi thế sức mạnh quân sự và lợi nhuận buôn bán,
người Mông Cổ ở Nga, Trung Á, Ba Tư và Trung Đông tìm những
phương tiện quyền lực và uy tín mới bằng cách kết hôn với dân
chúng và cố tình đồng hóa về mặt ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa.
Chính quyền Mông Cổ xóa bỏ những gì còn sót lại của Thần giáo,
Phật giáo và Ki-tô giáo trong gia đình và củng cố niềm tin vào Hồi
giáo bởi đó là tôn giáo chính của người dân, hay trong trường hợp
của nhà Kim Trướng ở Nga, đó là tôn giáo của quân đội người Turk
giúp họ tại vị.
Khi các thành viên khác của Hoàng gia Mông Cổ liên kết với
những phe phái tôn giáo trong dân chúng, khoảng cách giữa các
dòng dõi hoàng tộc lại càng xa. Khi nhà Kim Trướng ở Nga cải sang
Hồi giáo, trước khi anh em họ của họ ở Iraq và Iran cũng cải đạo, họ
liên minh với Ai Cập chống lại nhà Y Nhi. Sau đó, khi triều đình Y
Nhi Hãn Quốc cải sang Hồi giáo, họ đổi qua lại giữa hai dòng Sunni
và Shiite tùy theo điều kiện chính trị. Dưới thời Oljeitu – người Shiite
sùng đạo nhất – một làn sóng ngược đãi các nhóm thiểu số như các