hay giết động vật có thể gây mùi chết chóc, bởi họ nghi ngờ đây có
thể là nguyên do khiến bệnh lây lan. Tương tự, họ cấm ngành thuộc
da, và do vậy việc buôn bán đồ da cũng đình trệ. Cư dân quay trở lại
từ những nơi khác chỉ có thể mang hành lý tương đương khoảng
mười ba cân. Không ai được gửi quà cho nhà có người chết vì dịch
hạch hay tới thăm họ, và không ai được mua quần áo mới.
Các phái đoàn và thư từ ngoại giao ngừng hoạt động. Không còn
hệ thống vận chuyển Mông Cổ, nhà thờ Công giáo không giữ liên
lạc với các nhóm truyền giáo ở Trung Hoa. Người dân khắp mọi nơi
sợ hãi và đổ tội cho người nước ngoài đã mang dịch tới, đe doạ hơn
nữa giao thương quốc tế. Ở châu Âu, dân Ki-tô giáo lại một lần nữa
quy trách nhiệm cho người Do Thái, bởi họ có liên đới nhiều tới việc
buôn bán và với phương Đông – nguồn cơn của bệnh dịch. Một số
người Do Thái bị nhốt trong nhà và thiêu sống, – số khác bị đưa ra
ngoài và tra tấn trên giá cho tới khi thú tội. Dù Giáo hoàng Clement
VI vào tháng Bảy năm 1348 đã ban sắc lệnh bảo vệ người Do Thái
và yêu cầu các con chiên dừng việc ngược đãi, chiến dịch chống lại
họ vẫn dâng cao. Vào ngày Valentine năm 1349, chính quyền
Strasbourg đưa hai ngàn người Do Thái tới nghĩa địa Do Thái bên
ngoài thành phố để thiêu sống tập thể. Một số người Do Thái được
cho phép tự cứu mình khi họ thú tội và cải sang đạo Ki-tô, và vài trẻ
em bị buộc cải đạo. Hơn một ngàn người bỏ mạng trong sáu ngày,
thời gian cần thiết để thiêu sống tất cả họ, và cả thành phố cấm sự
hiện diện của bất kỳ người Do Thái nào. Hết thành phố này tới thành
phố khác bắt đầu tục lệ thiêu người Do Thái ở nơi công cộng để đẩy