không chỉ là nguồn cảm hứng, mà còn là một hướng dẫn viên đích
thực. Khi tới Cuba sau khi đi qua nhiều đảo nhỏ hơn, Columbus nghĩ
rằng ông đang ở rìa vương quốc của Khắc hãn và sẽ sớm tìm ra
vương quốc Cathay của Mông Cổ. Columbus tin rằng vùng đất của
vị hãn chỉ cách một chút về phương bắc, nơi ngày nay ta biết là lục
địa Hoa Kỳ. Vì ông không tìm được đất nước của Khắc hãn Mông
Cổ, ông nhận định rằng những người dân ông gặp hẳn là láng giềng
phía nam của người Mông Cổ ở Ấn Độ. Do vậy, Columbus gọi
những người thổ dân châu Mỹ là Anh-điêng, và đây vẫn là tên gọi
của họ cho tới ngày nay.
Nếu những tác gia và nhà thám hiểm thời Phục hưng công khai
ngưỡng mộ Thành Cát Tư Hãn và người Mông Cổ, thì Triết học Khai
sáng ở châu Âu thế kỷ mười tám sản sinh ra một tinh thần bài Á
ngày càng mạnh, và tập trung đặc biệt vào người Mông Cổ như biểu
tượng của mọi điều xấu xa hay khiếm khuyết trên lục địa rộng lớn
này. Ngay từ năm 1748, triết gia người Pháp Montesquieu đã mở
đường trong khái luận Bàn về tinh thần pháp luật, trong đó ông tỏ
thái độ khinh thường người châu Á và coi người Mông Cổ là nguồn
cơn cho các phẩm chất đáng ghê tởm của họ. Ông gọi người Mông
Cổ là “những kẻ lập dị nhất trên Trái đất.” Ông miêu tả họ vừa là
những tên nô lệ hèn hạ vừa là những ông chủ độc ác. Ông quy trách
nhiệm mọi cuộc tấn công lên các nền văn minh lớn từ Hy Lạp cổ đại