Càng đến gần, tim Paul càng đập mạnh. Miệng khô ran và cổ họng như
thắt lại, Paul thấy người chàng yếu hẳn đi: suốt cả ngày, chàng chỉ uống một
ly trà và ăn một miếng bánh sandwich. Lên đến đầu một con dốc nhỏ, Paul
dựa mình vào một thân cây phong cằn cỗi để lấy lại nhịp thở. Chân trời phía
tây nhuộm màu xanh nhạt, và từ mô đất đang đứng, chàng có thể thấy rõ
từng chi tiết của nhà tù.
Đó là một khối gạch khổng lồ vuông vức, không cửa sổ, chỉ có cửa ra
vào thấp, chông sắt nhọn, mỗi góc đặt một vọng gác, nằm cheo leo như tổ
chim phượng hoàng. Mỗi góc của nhà tù có một tháp canh, được xây cất
tương tự như một ổ chim. Tất cả mang một vẻ nặng nề thô kệch, như một
khối đá hay một thành lũy của thời trung cổ, bên ngoài có hai dãy nhà ở -
chắc là của lính gác - với những nhà kho và cơ xưởng, tất cả đều mất hút
trong khung cảnh đầm lầy thê lương hoang vắng. Một bức tường cao, lởm
chởm mũi nhọn bao quanh khu nhà tù, ở giữa là ba hầm mỏ đá há hốc trông
như những vết thương đẫm máu khổng lồ. Trong một khu hầm, toán tù
trông xa chỉ như đàn kiến xám, mỗi toán đặt dưới sự giám thị của bốn lính
gác, súng mang vai, đi từng bước chầm chậm; dưới mắt của Paul, cái tập
thể người khốn khổ này lăng xăng bận rộn trong một nỗi lặng lờ chìm sâu
của vô cùng.
Bỗng có một bước chân vang lên sau lưng, Paul giật mình quay lại, một
người chăn chiên đang leo lên mô đất nơi chàng đang đứng, theo sau là một
con chó lông xù. Vẻ hoang vu của thiên nhiên ở đây thể hiện trên gương
mặt cứng rắn và lầm lì của anh ta đang nhìn Paul bằng một cặp mắt đầy
nghi ngờ.
“Một nơi ghê tởm!” Người chăn chiên vừa nói vừa hất hàm về phía nhà
tù.
“Phải.” Paul cố gắng đáp nhỏ.
Người chăn chiên chậm chạp lắc đầu nói tiếp: “Thật là một nơi thê
thảm, tôi biết rõ điều này trong bốn mươi năm ở đây. Tháng vừa qua đã xảy
ra một cuộc bạo loạn: - năm người tù khổ sai và hai lính canh bị giết - vào