lên và thấy ba con bồ câu hoảng hốt bay vụt ra từ nơi ẩn náu nào đó trên các
xà mái. Cô Peregrine kêu lên đầy phấn khích – như thể muốn nói: Là chúng
đấy! – Bronwyn liền nâng bà lên, rồi tất cả chúng tôi cùng ùa theo mấy con
chim. Chúng bay xuống dọc chiều dài giáo đường chính, rồi ngoặt gấp, biến
mất qua một khung cửa.
Chúng tôi tới chỗ khung cửa đó muộn hơn vài giây. Tôi nhẹ nhõm khi
thấy nó không mở ra ngoài, nếu vậy chúng tôi sẽ không bao giờ có hy vọng
bắt được mấy con chim, và ra một giếng cầu thang, dẫn xuống những bậc
thang xoáy trôn ốc.
“Ái chà!” Enoch thốt lên, vỗ vỗ hai bàn tay mập mạp ngắn ngủn. “Giờ
chúng đã tự rúc vào bẫy - tự nhốt mình dưới tầng hầm!”.
Chúng tôi hối hả lao xuống cầu thang. Dưới chân cầu thang là một căn
phòng rộng sáng lờ mờ, tường và sàn đều bằng đá. Căn phòng lạnh lẽo, ẩm
thấp và gần như tối om vì điện đã bị cắt, vì thế Emma thắp lửa trên bàn tay
cô và đưa lên chiếu ra xung quanh, cho tới khi có thể thấy rõ thực trạng của
nơi này. Dưới chân chúng tôi, trải ra trên khắp mặt sàn giữa các bức tường
là những tấm bia cẩm thạch có khắc chữ. Tấm bia dưới chân tôi khắc:
GIÁM MỤC ELDRIDGE THORNBRUSH, MẤT NĂM 1721.
“Đây không phải là tầng hầm”, Emma nói. “Đây là một hầm mộ”.
Một cơn ớn lạnh lan ra khắp người tôi, tôi bèn bước lại gần ánh sáng và
hơi ấm từ ngọn lửa của Emma.
“Ý cậu là có những người được chôn dưới sàn à?” Olive hỏi , giọng run
rẩy.
“Thế thì sao?” Enoch nói. “Chúng ta hãy đi bắt mấy con bồ câu mắc dịch
đó trước khi một trong những quả bom vùi chúng ta dưới sàn”.
Emma quay một vòng, hướng ánh sáng chiếu lên các bức tường. “Chúng
nhất định phải ở đâu đó dưới này. Không còn lối ra nào ngoài cầu thang
đó”.
Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng đập cánh. Tôi cứng người lại.
Emma làm ngọn lửa cháy sáng hơn và hướng nó về phía tiếng động. Ánh
sáng chập chờn cô tạo ra hắt xuống một ngôi mộ nắp phẳng nhô lên khỏi