mặt sàn chừng một mét. Giữa ngôi mộ và tường là một khoảng trống mà
chúng tôi không thể thấy được phía sau từ chỗ chúng tôi đang đứng; một
nơi ẩn náu lý tưởng cho một con chim.
Emma đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng rồi ra dấu bảo chúng tôi đi
theo. Chúng tôi bò qua căn phòng. Đến gần ngôi mộ, chúng tôi tản rộng ra,
vây lấy nó từ ba phía.
Sẵn sàng chưa? Emma mấp máy môi.
Những người còn lại gật đầu. Tôi giơ ngón cái lên. Emma rón rén bước
tới ngó vào đằng sau ngôi mộ - và mặt cô ỉu xìu. “chẳng có gì cả!” cô nói,
thất vọng giậm chân xuống sàn.
“Tớ không hiểu!” Enoch nói. “Lúc nãy chúng ở ngay đây mà!”
Tất cả chúng tôi cùng bước tới xem. Rồi Millard nói, “Emma! Làm ơn
chiếu sáng lên mặt mộ nào!”
Cô làm theo, và Millard đọc to những gì được khắc trên đó lên thành
tiếng:
NƠI ĐÂY AN NGHỈ NGÀI CHRISTOPHER WREN, NGƯỜI XÂY
DỰNG NHÀ THỜ LỚN NÀY
“Wren!” Emma thốt lên. “Một trùng hợp lạ lùng làm sao!”.
“Tớ không nghĩ đây là trùng hợp ngẫu nhiên”, Millard nói. “Ông ta nhất
định có liên quan tới cô Wren. Có thể là bố bà ấy!”.
“Rất thú vị”, Enoch nói, “nhưng nó có thể giúp chúng ta tìm ra bà ấy hay
lũ bồ câu của bà ấy thế nào đây?”.
“Đó chính là điều tớ đang muốn lý giải”, Millard lẩm nhẩm một mình, đi
đi lại lại một chút và nhắc lại một câu trong truyện: “bầy chim vẫn thỉnh
thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới”.
Thế rồi tôi nghĩ tôi nghe thấy một con bồ câu kêu cu cu. “Suỵt!” tôi nói,
và ra hiệu bảo mọi người lắng nghe. Âm thanh đó lại vang lên vài giây sau,
từ góc phía sau mộ. Tôi đi vòng tới đó và quỳ xuống, và đúng lúc ấy tôi để
ý thấy một cái lỗ nhỏ trên sàn dưới chân mộ, chỉ to cỡ lọt nắm tay - đủ lớn
để một con chim chui vừa.