ràng đã không làm đủ tốt việc đảm bảo cho các Vòng Thời Gian của họ
khỏi bị tấn công. Tôi không thích bị gạt sang bên như thế, và nếu đánh giá
qua đôi lông mày đang nhíu lại của Emma, thì cả cô cũng không – nhưng
nói ra thành lời như thế thì quả là thô lỗ đến mức không thể nghĩ tới, vì vậy
leo cầu thang xong, chúng tôi rơi vào sự im lặng đầy lúng túng.
Chúng tôi lên tới cầu thang. Chỉ có vài cánh cửa trên tầng này bị đóng
băng. Cô Wren đón cô Peregrine từ Horace và nói, “Lại đây nào, Alma,
xem xem chúng ta có thể làm gì cho cô nào.”
Althea xuất hiện từ một khung cửa mở, khuôn mặt đỏ ửng, ngực phập
phồng. “Phòng của cô đã sẵn sàng, thưa cô phụ trách. Đã có mọi thứ cô yêu
cầu.”
“Tốt, tốt,” cô Wren nói.
“Nếu chúng cháu có thể làm bất cứ điều gì để giúp bà,” Bronwyn nói,
“bất cứ điều gì…”
“Tất cả những gì ta cần là thời gian và tĩnh lặng,” cô Wren đáp. “Ta sẽ
cứu cô phụ trách của các cháu, các cô cậu trẻ tuổi. Lấy tính mạng của ta
đảm bảo, ta sẽ làm.” Rồi bà quay đi, mang theo cô Peregrine đi vào phòng
với Althea.
Không biết phải làm gì khác, chúng tôi đi theo bà và xúm lại quanh cánh
cửa vẫn hơi hé mở. Chúng tôi thay nhau ngó vào trong. Trong một căn
phòng ấm cúng được thắp sáng lờ mờ bằng đèn dầu, cô Wren ngồi trong
một chiếc ghế bập bênh, ôm cô Peregrine trong lòng. Althea đứng trộn các
lọ đựng chất lỏng tại một bàn thí nghiệm. Cứ chốc chốc cô gái lại nhấc một
lọ lên và lắc, rồi đi tới chỗ cô Peregrine và đưa cái lọ vào dưới mỏ bà – gần
giống như đưa qua đưa lại lọ thuốc muối amoni dưới mũi một người ngất
xỉu. Trong suốt thời gian đó, cô Wren đung đưa ghế bập bênh và vuốt ve bộ
lông cô Peregrine, hát cho bà một bài hát ru nhẹ nhàng, du dương:
“Eft kaa vangan soorken, eft ka vangan soorken, malaaya…”
“Đó là ngôn ngữ của người đặc biệt cổ xưa,” Millard thì thầm. “Về nhà,
về nhà đi… hãy nhớ lấy bản ngã của mình… đại loại như vậy.”
Cô Wren nghe thấy tiếng cậu ta bèn nhìn lên, rồi phẩy tay xua chúng tôi
đi. Althea đi tới đóng cửa lại.