thừng nghiến cót két. Chạm đất thành một đống bó cứng lấy nhau, chúng tôi
gỡ mình ra khỏi mớ bòng bong và tạo thành cảnh tượng trông như một bộ
phim đã thất lạc của Three Stooges
(*)
; vài lần tôi nghĩ mình đã thoát ra, rồi
cố đứng lên chỉ để ngã dập mặt xuống lần nữa bịch một cái rõ nực cười!
Con hồn rỗng đã chết nằm cách đó chỉ chừng mấy chục phân, những cái
xúc tu của nó duỗi xòe ra như những cánh tay của một con sao biển bị đè
bẹp dưới tảng đá. Tôi gần như cảm thấy bối rối vì chuyện đó: một con quái
vật đáng sợ như thế lại bị những đứa trẻ như chúng tôi tiêu diệt. Lần tới –
nếu còn có lần tới – tôi không nghĩ chúng tôi sẽ may mắn được như thế.
(*) Một nhóm phim hài Mỹ chuyên sản xuất các bộ phim ngắn trong giai
đoạn 1925 – 1970.
Chúng tôi rón rén đi vòng qua cái xác hôi thối của con hồn rỗng. Chúng
tôi lao xuống núi nhanh hết mức có thể với mức độ hiểm trở của con đường
mòn và món hành lý dễ phát nổ của Bronwyn. Xuống tới đất bằng, chúng
tôi có thể lần theo đúng dấu chân của mình để quay trở lại qua thảm rêu
mềm ướt át của khu rừng. Chúng tôi lại tìm thấy cái hồ đúng lúc mặt trời
lặn và lũ dơi đang kêu rít bay ra khỏi nơi ẩn náu của chúng. Những con vật
này dường như mang theo một lời đe dọa khó hiểu từ thế giới của ban đêm,
gào thét và bay lượn trên đầu trong khi chúng tôi bì bõm lội qua làn nước
nông về phía người khổng lồ đá. Chúng tôi leo lên miệng người khổng lồ
rồi trượt xuống cổ họng ông ta, sau đó bơi ra ngoài ở phía sau tảng đá và lập
tức lao vào tàn nước lạnh hơn, ánh sáng rực rỡ hơn của buổi trưa, tháng
Chín năm 1940.
Những người khác trồi lên quanh tôi, kêu thét lên và khum lấy tai, ai
cũng cảm thấy áp lực đi kèm theo sự chuyển dịch quá nhanh.
“Cứ như một chiếc máy bay cất cánh vậy,” tôi nói, cử động hàm để nhả
không khí ra.
“Tớ chưa bao giờ bay trên máy bay,” Horace nói, giũ nước khỏi vành mũ
của cậu ta.
“Cũng như khi cậu đang đi trên xa lộ và ai đó hạ kính cửa xe xuống ấy,”
tôi nói.
“Xa lộ là gì vậy?” Olive hỏi.