ruồng bỏ nhạc công, hàng ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là
tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho họ Trần. Lúc ấy, một người tôn thất
nhà Trần, tên là Lục, thừa cơ lấy trộm hai nhạc cụ ấy. Không ngờ bị nhạc
công là Nguyễn Trực trông thấy, toan đem phát giác. Lục sợ mắc tội, liền
đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho mất dấu
tích đi. Khí vàng và ngọc lâu ngày thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua
đào lên để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó. Trong bài thơ nói: "Cổ
nguyệt lạc hàn thủy", là: bên tả chấm thủy, giữa có chữ "cổ", bên hữu có
chữ "nguyệt", ghép lại thành chữ "hồ" (
湖 ). Âm bên hữu, bên hữu chữ
"điền" thêm chữ "bán" là chữ "bạn" (
畔 ). Cho nên nói: "điền ôi vị bán
âm". Kim, đồng ghép lại là chữ "chung" (
鐘 ). Thiên lý ghép lại là chữ
"mai" (
埋 ), vì chữ "thổ" ngược lại là chữ "thiên". Bốn câu này đọc lại
thành bốn chữ "Hồ bạn chung mai" (nghĩa là chuông chôn bờ hồ). Còn các
chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôi. Hai chữ "vương" trên
chữ "ba" là chữ "bà" (
琶 ). Trên đầu chữ "tỷ" với trên đầu chữ "ba" so sánh
như nhau, nghĩa là cùng đặt hai chữ "vương" lên trên thì thành chữ "tỳ" (
琵 ). Hai chữ tuy đảo ngược, nhưng cũng hiểu là chữ "tỳ bà". Gả cho chàng
kim đồng: Kim đồng là chữ "chung". Chắc là "Tỳ bà" và "kim chung" cùng
đựng vào một vật gì đem chôn đó. Còn câu: "Không đới đào chi vĩnh tự
thương", thì xem bên bờ hồ có cây anh đào, tức là hai thứ ấy chôn ở dưới
gốc đó.
Ta lại hỏi âm và nghĩa của bảy mươi mốt chữ ở đầu trang.
Tiên thổi địch nói:
- Những chữ ấy tức là lời tâu của hai con yêu. Lối ấy là lối chữ cổ sơ
của Việt Nam. Nay mường mán ở các sơn động cũng có người còn đọc
được. Nhà vua triệu họ đến, bắt đọc thì khắc biết.
Tiên thổi địch nói xong, ta còn muốn nói chuyện nữa. Chợt có cơn gió
thoảng qua làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn đi tìm. Quả
nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ.