vứt bỏ đi. Trước hết tập luyện sĩ tốt về phép dùng binh thì có năm phép tắc.
Thứ nhất là sai khiến con mắt. Tập luyện cách biến động theo sự chỉ huy
(1)
cờ
xí, chạy dọc chạy ngang theo ý muốn.
Thứ hai là sai khiến lỗ tai: tập nghe tiếng chiêng trống, cách động tĩnh đi
đứng.
Thứ ba là sai khiến lòng dạ: tập chịu nghiêm cách của hình phạt, hưởng điều
lợi ích của tước lộc, thưởng.
Thứ tư là sai khiến cái tay: Tập cho biết phương tiện của năm binh, chuẩn bị
việc chiến đấu.
Thứ năm là sai khiến cái chân: Tập các phép xông vào hay chạy trốn và các
cách tới lui cho được chu toàn.
Cho nên gọi là năm cách dạy: lệnh về dạy về quân trận đều có phép tắc.
Bên trái dạy Thanh long,
Bên phải dạy Bạch Hổ,
Đằng trước dạy Chu Tước,
Đằng sau dạy Huyền Võ,
Ở giữa là chỗ ở của Hiên Viên Đại Tướng Quân.
Bên trái là mâu (giáo), bên phải là kích, đằng trước là thuẫn (mộc) đằng sau
là nỏ, ở giữa là cờ trống; lúc động cùng dấy, nghe trống thì tới, nghe chiêng thì
lui, tùy theo sự chỉ huy, năm trận bèn có thể sắp bày.
Theo trận pháp chính cách thì cờ trống là chủ chốt.
Một tiếng trống, đưa cờ xanh lên, ắt là bày trận thẳng (trực trận).
Hai tiếng trống, đưa cờ đỏ lên, ắt là bày trận bén (nhuệ trận).
Ba tiếng trống, đưa cờ vàng lên, ắt là bày trận vuông (phương trận).
Bốn tiếng trống, đưa cờ trắng lên, ắt là bày trận tròn (viên trận).
Năm tiếng trống, đưa cờ đen lên, ắt là bày trận cong (khúc trận).
Trận thẳng là mộc trận (trận cây).
Trận bén là hỏa trận (trận lửa).
Trận vuông là thổ trận (trận đất).
Trận tròn là kim trận (trận loài kim).
Trận cong là thủy trận (trận nước).
Trận ngũ hành ấy biến hóa mà sinh nhau, xung đối mà hơn nhau sinh nhau
để cứu nhau, hơn nhau để đánh phá, sinh nhau để giúp nhau, hơn nhau để mà