Thịnh Hoành không phản bác, trái lại liên tục gật đầu: “Chuyện tình bên
trong ta đã sớm điều tra rõ. Chuyện lần này có liên quan rất lớn đến Lâm
thị, nhưng nói nàng ấy muốn hại chết người thì cũng hơi quá. Chỉ có thể
nói dì Vệ mệnh bạc, hai chuyện kết hợp với nhau lại dẫn đến uổng mạng
người. Bà đỡ theo hồi môn nàng đến thường ngày cũng có tranh chấp với
Lâm thị, không phải cố tình chậm trễ. Việc đã đến nước này nhưng ta đâu
lấy mạng dì Lâm được, phải không? Hai đứa bé kia nếu có lòng oán hận,
gia đình sẽ không yên ổn.”
Vương thị tức giận, xoay người không để ý đến Thịnh Hoành, bực bội
cầm lấy khăn tay vặn xoắn.
Thịnh Hoành đến ngồi bên cạnh Vương thị, nhỏ giọng khuyên nhủ:
“Mấy năm nay, ta khiến cho phu nhân chịu nhiều uất ức. Phu nhân yên tâm,
từ nay về sau, ta sẽ không dung túng cho dì Lâm, nàng là vợ cả, nàng ta là
vợ lẽ. Nàng là người ta dùng tam thư, lục lễ [‘] cưới hỏi đàng hoàng, làm
phu nhân chính thất, là người bên gối suốt đời cùng ta hưởng hương khói từ
đường. Lâm thị có muốn lật trời cũng phải thông qua nàng trước, đương
nhiên nàng ta sẽ phải đến thỉnh an nàng, múc nước hầu hạ.”
[‘]: Tam thư: là 3 lá thư do họ nhà trai gửi cho họ nhà gái để xin cưới và
chuẩn bị dàn xếp các nghi thức cưới hỏi. Thư thứ nhất: ngỏ ý cầu hôn, xin
được sang nhà gái để bàn chuyện. Thư thứ hai sau Lễ dạm ngõ: nhà trai
chọn ngày lành tháng tốt sang nhà gái hỏi ngày sinh tháng để của cô dâu.
Thư thứ ba sau Lễ Nạp tài: họ nhà trai xin họ nhà gái ngày giờ rước dâu.
Lục lễ: là 6 lễ họ nhà trai phải lo toàn vẹn sau khi họ nhà gái chấp nhận
kết tình thông gia bao gồm: Lễ dạm ngõ; Lễ vấn danh (lễ trà, vật rượu bánh
tìm hiểu ngày sinh tháng để cô dâu muốn cưới về); Lễ nạp cát (lễ cáo với
bàn thờ tổ tiên rằng tuổi của đôi trai gái hợp nhau); lễ nạp tài (trầu, cau, tiền
tài, đôiđèn cầy đỏ nữ trang cho cô dâu tương lai); Lễ thỉnh kỳ (lễ họ nhà
trai xin họ nhà gái ngày giờ rước dâu); Lê vu quy (rước dâu và họ nhà gái).