bám, mặc một chiếc sơ mi sạch, rửa kỹ mặt và tay bên cái gộc cây sát đầm
nước, nơi xuống đầm tiện nhất, rồi đi Ra-đô-li-xki.
Mùa hè ít người ốm lui tới, có tới cũng chủ yếu là buổi chiều, sau lúc
mặt trời lặn, khi ấy người ta rỗi rãi hơn.
Thời gian gần đây, tất cả người nhà, nhất là đám đàn bà, đều nhận thấy
trong cung cách xử sự của thầy lang có những thay đổi đáng kể. Ông hình
như bắt đầu chăm lo cho bản thân hơn, giày đánh xi bóng loáng, ông mua
hai chiếc áo cánh vải màu, tỉa râu và tóc trước kia vẫn để dài phủ vai khiến
ông giống như một cha cố chính giáo.
Nếu bàn về nguyên nhân của sự lịch sự kia, thì cô nàng Zô-nhia không
hề còn một ảo tưởng nào hết. Đã từ lâu, bản năng đàn bà không bao giờ
nhầm lẫn trong những chuyện kia đã mách bảo cô rằng chắc chắn cái ông
An-tô-ni Kô-si-ba xưa nay vẫn thờ ơ lãnh đạm với cái duyên đàn bà đã tìm
được cho mình một ả nào đó trong thị trấn rồi. Thoạt tiên, những nghi ngờ
hướng vào bà Skốp-kô-va, chủ cửa hiệu, nhưng sau một cuộc điều tra ngắn
ngủi, hóa ra là không chính xác. Ông An-tô-ni có lui tới cửa hiệu ấy thật
nhưng chỉ để gặp gỡ một cô gái làm công trẻ măng ở chỗ bà Skốp-kô-va
mà thôi.
Zô-nhia đã gặp cô gái ấy nhiều lần, chị vừa buồn vừa bực mình khi
nghĩ đến cuộc tình kia.
- Này, ông lão kia ơi, - chị chàng vừa nói vừa nhìn ông thầy lang đang
cọ rửa kỹ càng, - ông muốn gì nữa thế không biết? Con bé ấy có phải để
cho ông đâu cơ chứ?... Gõ vào đâu thử đi ông ạ! Xí! Nó thì làm nổi việc gì
kia chứ? Cứ việc mà tới lui thăm nom bằng thích thì thôi, nhưng hỏi được
ích lợi gì không nào? Ông phải có một vợ lam làm khỏe mạnh, chứ không
phải một con nhóc tay trắng kia đâu.
- Chứ sao! - Zô-nhia chống nạnh vẻ thách thức, - Tôi không chối. Tôi
kém cạnh gì con bé ấy nào?... tôi không trẻ như nó hả?... Thế thì đã sao?
An-tô-ni, ông hãy nghĩ kỹ lại đi, ông cần con bé trẻ măng ấy để làm gì?...