định của mình, chàng muốn duy trì cho mình một đời sống đầy đủ tiện
nghi, trả bằng danh tiếng của nàng!
Điều đó đòi phải trừng phạt! Và chàng sẽ phải tự trừng phạt mình, bởi
chỉ có hình phạt ấy mới có thể là lời thanh minh cho Ma-rư-sia, chỉ có hình
phạt ấy mới có thể gột rửa thanh danh cho con người thân yêu hơn hết thảy
kia...
Tàu dừng ở một ga nhỏ, vô cùng thân thuộc. Trên đường ke là phu
nhân Trưn-xka, cô Ti-ta Zê-nô-vi-rúp-na, em gái của cô là A-nhi-en-ka, ông
anh họ Ka-rôn, vợ anh ta là Zun-ka và vài người nữa trong gia đình, thường
hay về Lu-đơ-vi-kốp dự lễ Thiên Chúa Giáng Sinh.
Nụ cười nửa miệng gượng gạo mà Lê-sếch dùng để chào hỏi mọi
người không đánh lừa nổi ai: chàng chưa bình phục hẳn. Họ cố ý ra đón
chàng nồng nhiệt và ồn ào để khiến chàng vui, kéo chàng vào những
chuyện thường ngày vô lo của mình. Chỉ mỗi mình cô bé A-nhi-en-ka im
lặng ngắm chàng dường như đồng cảm.
- Anh ấy nhợt nhạt và buồn bã làm sao, - cô hạ giọng nói với phu nhân
Trưn-xka.
- Cháu hãy làm cho anh ấy vui và giả vờ như không thấy anh ấy có
thay đổi gì cả, - phu nhân E-lê-ô-no-ra xiết chặt tay cô, - Bao giờ anh ấy
cũng rất mến cháu.
Bốn chiếc xe trượt, lục lạc kêu rộn ràng, rẽ vào trước tòa dinh thự Lu-
đơ-vi-kốp, chẳng khác gì một đoàn diễu hành bằng xe trượt. Suốt ngày
người ta không để cho Lê-sếch một phút nào cô đơn. Trong phòng khách,
ra-đi-ô và máy hát thay nhau chơi nhạc ồn ã.
Mãi đến sau bữa tối chàng mới trở về phòng riêng. Nơi đây không có
gì thay đổi trong thời gian chàng vắng mặt. Chàng lo lắng nhìn vào ngăn
kéo bàn giấy. Quyển nhật ký của Ma-rư-sia vẫn nằm nguyên chỗ cũ.
Chàng đọc suốt đêm, đọc đi đọc lại mấy lần liền những trang mà
chàng nhớ như in nội dung, thậm chí nhớ từng chữ. Mãi gần sáng chàng