sau lò sưởi, không làm gì hết, chỉ ăn và ngủ. Nhưng ông ấy không phải loại
người như thế. Ông ấy là người đầu tiên làm bất cứ việc gì, dù đó là việc
tinh vi hay vất vả. Làm cho đến xong, cho được việc mới thôi. Mà người
thì đâu có trẻ trung gì nữa. Vì thế chúng tôi kính xin tòa cao minh tha cho
ông ấy ra vì lòng ca ngợi Chúa, vì ích lợi của mọi người.
Mái đầu bạc của ông lão cúi xuống trong một cái cúi chào thật thấp,
viên chưởng lý nhíu mày, còn tất cả những người có mặt đều nhìn bị cáo.
Nhưng An-tô-ni Kô-si-ba vẫn ngồi dửng dưng, đầu cúi xuống. Ông
không hề nghe thấy những câu hỏi khéo léo của chưởng lý, những đợt phản
kích của người bào chữa, những lời khai của các nhân chứng. Ông chỉ bừng
tỉnh trong một thoáng ngắn ngủi bởi cái giọng khẽ khàng, run run của Ma-
rư-sia. Khi ấy ông ngước mắt lên, mấp máy cặp môi không thành tiếng, để
rồi lại chìm vào nỗi thờ ơ.
- Ta chẳng còn gì hết, - ông nghĩ thầm, - không còn gì chờ ta nữa hết...
Trong khi đó, trong bục khai đang đứng nhân chứng quan trọng nhất,
người mà lời khai được trạng sư Ko-rơ-trưn-xki lưu tâm nhất. Vả lại cũng
chẳng riêng gì trạng sư, cả các vị quan tòa cũng như toàn thể cử tọa đều
chờ sự xuất hiện của ông trong một nỗi căng thẳng. Một nhà khoa học trứ
danh sẽ lên tiếng, một nhà giải phẫu tuyệt vời, đồng thời cũng là người số
một trong y giới, persona gratissma, gần như là người đại diện cho cả giới,
một đại diện chính thức, là chủ tịch đồng thời là người bảo trợ.
Những ai chưa quen ông hoặc chưa được thấy ông bao giờ, cũng phải
hình dung giáo sư Đô-bra-nhe-xki đúng như thế mà thôi. Một người đàn
ông cao lớn, ở tuổi tráng niên, thân hình hơi phì, có khuôn mặt trông
nghiêng tuyệt diệu của một con đại bàng, cùng vầng trán cao. Từ mỗi cử
chỉ của ông, từ mỗi lời ông nói, từ cái nhìn đầy trang trọng đều toát ra vẻ tự
tin mà chỉ duy cảm giác về giá trị của bản thân, cái giá trị được mọi người
thừa nhận và chính thức hóa bằng địa vị trong cuộc đời, mới cho người ta
có được.