tranh đã xuất hiện từ lâu trước khi người châu âu tới. Tuy vậy, sự xuất hiện
của người châu âu đã làm gia tăng tính nghiêm trọng của chiến tranh trong
hàng thập kỷ (New Zealand, Fuji, các đảo Solomon) hoặc thế kỷ (Đại Bình
nguyên, Trung Phi) trước khi biến mất.
Ở các trường hợp khác, sự xuất hiện của người châu âu hay những người
ngoài khác lại dẫn đến sự kết thúc chiến tranh mà không có bất kỳ dấu hiệu
bùng nổ nào lúc đầu. Ở nhiều vùng của Cao nguyên New Guinea, những
người châu âu đầu tiên là những tuần tra viên của chính phủ, họ đã ngay lập
tức kết thúc các cuộc chiến trước khi thương nhân, nhà truyền giáo châu âu
hay thậm chí những hàng hóa nhập khẩu gián tiếp từ châu âu kịp xuất hiện.
Năm 1950, khi các nhà nhân học lần đầu nghiên cứu những nhóm người
!Kung ở châu Phi thì những người này, tuy không còn tấn công lẫn nhau,
nhưng tần suất những vụ giết người đơn lẻ trong nội bộ nhóm hoặc giữa
những nhóm láng giềng vẫn còn cao cho đến những năm 1955. Bốn trong
năm vụ giết người cuối cùng (năm 1946, 1952, 1952 và 1955) dẫn đến việc
chính quyền Tswana phải bỏ tù những kẻ sát nhân. Bên cạnh đó, sự hình
thành tòa án Tswana nhằm giải quyết tranh chấp đã khiến người !Kung loại
bỏ hoạt động giết người như một cách giải quyết mâu thuẫn từ sau năm
1955. Tuy nhiên, lịch sử truyền miệng của !Kung có kể về những cuộc tấn
công giữa các nhóm ở một vài thế hệ trước đó, cho đến khi việc gia tăng
tiếp xúc với người Tswana dẫn đến sự du nhập sắt cho các mũi tên cùng
những thay đổi khác. Bằng cách nào đó, sự tiếp xúc đó dẫn đến việc chấm
dứt hoạt động đột kích từ lâu trước khi cảnh sát Tswana can thiệp để bắt giữ
kẻ giết người.
Ví dụ cuối cùng diễn ra ở Tây Bắc Alaska, nơi những cuộc chiến lan rộng
và những cuộc hủy diệt giữa người Yupik với người Inuit Iñupiaq đã chấm
dứt trong vòng một thập niên hoặc một thế hệ kể từ khi tiếp xúc với người
châu âu - không phải vì lực lượng tuần tra, cảnh sát và tòa án cấm chiến
tranh mà vì những hệ quả khác từ sự tiếp xúc này. Việc kết thúc chiến tranh
Yupik được cho là do một đợt dịch bệnh đậu mùa vào năm 1838, làm suy