già còn sống hơn, có ít con cái trưởng thành sẵn sàng chăm sóc cho họ hơn,
hầu hết những đứa con trưởng thành đều làm việc bên ngoài và không thể
chăm nom một người già suốt ngày. Khi các cơ sở dạng này cho người già
vận hành tốt, chúng có thể thiết lập các mối quan hệ xã hội mới để thay thế
cho những mối quan hệ lâu năm đã mất khi người già chuyển đến những cơ
sở này. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp chúng đóng góp vào tình trạng
cô lập xã hội của người già khi trang bị nơi ở cho những bậc cha mẹ già có
thể bị con cái bỏ rơi và đáp ứng được ít nhiều nhu cầu vật chất của họ,
nhưng đây cũng là nơi nhu cầu xã hội của người già không được đáp ứng vì
con cái trưởng thành của họ (khi biết rằng những nhu cầu vật chất đã được
đáp ứng) thăm viếng với tần suất khác nhau như một ngày một lần, mỗi
tuần một lần, mỗi năm một lần, hoặc không bao giờ, trong số những người
mà tôi quen biết.
Ẩn sau sự gia tăng tình trạng cô lập xã hội với người già hiện đại là thực tế
rằng họ bị xem là kém hữu ích hơn là người già trong quá khứ, vì ba lý do:
trình độ học vấn hiện đại, giáo dục chính thức và sự thay đổi công nghệ
nhanh chóng. Ngày nay, chúng ta lưu trữ kiến thức bằng văn bản, do đó,
trình độ học vấn hầu như đã xóa bỏ vai trò của ký ức của người già như
một phương tiện chiếm ưu thế trước đây để lưu trữ kiến thức. Tất cả các xã
hội nhà nước đang hoạt động đều hỗ trợ hệ thống giáo dục và ở các nước
Thế giới Thứ nhất việc đi học của trẻ em gần như là bắt buộc, do đó toàn
thể người già không còn là giáo viên của xã hội cũng như không còn là ký
ức của xã hội. Nói đến công nghệ lỗi thời, sự thay đổi công nghệ với tốc độ
siêu chậm trong quá khứ có nghĩa rằng công nghệ mà một người học được
trong thời thơ ấu vẫn được sử dụng không đổi 70 năm sau đó, do đó, các kỹ
năng công nghệ của người già vẫn hữu ích. Với tốc độ đổi mới công nghệ
nhanh chóng ngày nay, công nghệ trở nên lỗi thời trong vòng một vài năm
và sự đào tạo mà người già nhận được cách đây 70 năm dường như không
còn hữu dụng. Một ví dụ đơn giản từ kinh nghiệm của riêng tôi, khi tôi đi
học vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950, chúng tôi sử dụng
những phương pháp để làm phép nhân: ghi nhớ bảng cửu chương; thước